Câu đối cuối tuần (1 người xem)

Liên hệ QC

Người dùng đang xem chủ đề này

trung_dang

Thành viên mới
Tham gia
16/1/07
Bài viết
45
Được thích
21
Mời cả nhà thư giãn cuối tuần bằng câu đối sau:
"Trai Củ Chi chỉ cu hỏi củ chi"
Ai đối chỉnh nhất thưởng lớn--=0
 
Mời cả nhà thư giãn cuối tuần bằng câu đối sau:
"Trai Củ Chi chỉ cu hỏi củ chi"
Ai đối chỉnh nhất thưởng lớn--=0

Goo trả lời :

  • Anh thanh niên Cần Giờ nhanh nhảu: "Con trai Cần Giờ giơ cần hỏi cần giờ"
  • Chị Hải Dương tiếp luôn: "con gái Hải Dương hưởng giai ngoài hải dương"
  • Chú Hải Phòng đâu có kém cạnh: "Con trai Đồ Sơn sơn đồ bán đồ sơn"
  • Em Hà Nội e thẹn: "Trai Hàng Chuối chuồi háng bảo hàng chuối"
  • Anh bộ đội : Chàng trai Giải Phóng phỏng ... hô giải phóng
  • Cậu nhỏ ở Thái Đức - Thái Nguyên : Trai Thái Đức thức đái khoe thái đức
  • Đồng Mô - Hà Nội : Trai Đồng mô đồ mông vặn đồng mô?
Còn nhiều lắm nhưng cũng không chỉnh lắm!
 
Các Bác đối hộ em 2 câu này

Goo trả lời :
  • Anh thanh niên Cần Giờ nhanh nhảu: "Con trai Cần Giờ giơ cần hỏi cần giờ"
  • Chị Hải Dương tiếp luôn: "con gái Hải Dương hưởng giai ngoài hải dương"
  • Chú Hải Phòng đâu có kém cạnh: "Con trai Đồ Sơn sơn đồ bán đồ sơn"
  • Em Hà Nội e thẹn: "Trai Hàng Chuối chuồi háng bảo hàng chuối"
  • Anh bộ đội : Chàng trai Giải Phóng phỏng ... hô giải phóng
  • Cậu nhỏ ở Thái Đức - Thái Nguyên : Trai Thái Đức thức đái khoe thái đức
  • Đồng Mô - Hà Nội : Trai Đồng mô đồ mông vặn đồng mô?
Còn nhiều lắm nhưng cũng không chỉnh lắm!

Câu 1: Da trắng gổ bì bạch.

Câu 2: Rừng sâu mưa lâm thâm.
 
Câu 1: Da trắng gổ bì bạch.

Câu 2: Rừng sâu mưa lâm thâm.

Lại sai chính tả rồi : Da trắng vỗ bì bạch

Câu đối này gắn liền với chuyện chọc ghẹo giữa Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm.
Vì vậy lên Goo là tìm thấy ngay.
VD :
  • Rừng sâu mưa lâm thâm
  • Nhà vàng ngồi đàng hoàng
  • Trời xanh màu thiên thanh
  • ...............
Tuy nhiên cho đến nay, câu đối khả dĩ có thể đối lại trọn vẹn thì vẫn chưa thấy (về luật bằng trắc, về ngữ nghĩa, về thanh, về sự hợp lý của hoàn cảnh, về tượng thanh, về tượng hình).

Thân!
 
Mâm vàng thấy bàng hoàng!
Tượng hình chưa nhỉ?
 
Mâm vàng thấy bàng hoàng!
Tượng hình chưa nhỉ?

Tượng thanh thì chưa bạn ạ (bì bạch)

Còn tượng hình thì cũng chưa vì bàng hoàng là để diễn tả trạng thái tinh thần của con người, không như bì bạch là diễn tả âm thanh. Nếu thay bàng hoàng bằng sần sùi thì là tượng hình đấy:-=

Còn hoàn cảnh thì có lẽ là được nếu quả thực Trạng Quỳnh đã thấy (hoặc tưởng tượng thấy) . . cái mâm vàng!||||||||||:-=:-=

Mà đang da trắng lại đến cái . . mâm vàng, sao màu sắc biến đổi nhanh thế ???:-=:-=, chắc Đoàn Thị Điểm mới . . khỏi bệnh!:-=

Be be be!!
 
Lần chỉnh sửa cuối:
"Gái Mông Dương dương mông bảo mông dương"

Văn vẻ thôi nhé , có chị em nào ở Mông Dương đại xá cho. Hì, Hì,...
 
Goo trả lời = là gì nhỉ
Tức là phải làm các thao tác sao???!?!??
Mở IE lên, nhập vào thanh Address dòng chữ "Đừng bao giờ quên", ý lộn "http://www.google.com.vn". Sao đó nhập vào ô trống, dòng chữ "Xin đừng quên" ý lộn, dạo này mình ngớ ngẩn thật!
Xin lỗi nha viết lại!
Mà quên rồi viết gì nhỉ! Bác mách cho em với!
Cảm ơn bác nhiều!
//////@!##
 
Mình làm câu đối này nhờ các sự phụ đối hộ.
Chùa thầy thầy tu, thầy tu chùa thầy.
 
Đối này:
Đường bác bác đi, bác đi đường bác.
Nhà tôi tôi ở, tôi ở nhà tôi
Chỉnh chưa nhỉ?

Chỉnh về bằng trắc, về nghĩa, tuy nhiên chưa chỉnh về cấu trúc ngữ pháp.

.....bác đi ...... đối với ...... thầy tu....

đi là động từ, thành ra, tu cũng là động từ, tuy nhiên thầy tu lại có thể là danh từ

Vì vậy, nếu theo nghĩa thường : Chùa (của) thầy (thì) thầy tu (luyện), thầy tu (luyện ở) chùa (của) thầy thì câu của bạn đối trên là chuẩn.

Nhưng nếu theo nghĩa liệt kê danh từ : (Nào là) chùa (của) thầy (và ông) thầy tu, (nào là ông) thầy tu (và) chùa (của) thầy thì lại chưa đúng

Tuy nhiên, câu đối của bạn rất sáng tạo.

Thân!
 
Mình gửi một chút về câu đối ở Wikipedia để các bạn tham khảo nhé khi xét thưởng, tuy chưa đầy đủ và đúng, kiến thức về câu đối còn vô vàn, gọi thần đèn Google đọc mãi không hết, càng đọc càng thấy gần gần bằng các cụ.

Sách: Nghệ Thuật Câu Đối, tác giả:Nhất Như, Phạm Cao Hoàn, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, giá bán:33.000 vnd

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung QuốcViệt Nam.
Nguồn gốc

Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên (對聯) nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù (桃符).
Câu đối được xem là "tinh hoa" của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa"[1].
Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia (宋史蜀世家), câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959[2].
Nguyên bản: 新年納餘慶嘉節號長春 Phiên âm:Tân niên nạp dư khánhGia tiết hiệu trường xuân Dịch thơ:Năm mới thừa chuyện vuiTiết đẹp xuân còn mãi
[sửa] Những nguyên tắc của câu đối

Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.

[sửa] Đối ý và đối chữ

  • Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 2 câu sóng nhau.
  • Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.
- Về thanh: thanh bằng đối với thanh trắc và ngược lại.- Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru...) phải đối với hư tự; danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho...
[sửa] Vế câu đối

Một đôi câu đối gồm hai câu đi song nhau, mỗi câu là một vế. Nếu câu ấy từ một người sáng tác gọi là vế trênvế dưới. Nếu một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế ravế đối.
Khi một câu đối do một người làm ra cả hai vế, thì chữ cuối, vế trên, câu bên phải (khi treo) là thanh trắc; còn chữ cuối, vế dưới, câu bên trái là thanh bằng.

[sửa] Số chữ và các thể câu đối

Số chữ trong câu đối không nhất định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
  • Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
  • Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
  • Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:
- Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền- Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài- Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.
[sửa] Luật bằng trắc

  • Câu tiểu đối:
- Vế phải: trắc-trắc-trắc- Vế trái: bằng-bằng-bằng
  • Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thựccâu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
  • Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.
[sửa] Phân loại câu đối


[sửa] Câu đối Trung Quốc

Người Trung Quốc phân loại câu đối theo cách dùng và đặc điểm nghệ thuật:

[sửa] Phân loại theo cách dùng

  • Xuân liên (春聯): Câu đối xuân, chuyên dùng vào dịp Tết, gắn ở cửa.
  • Doanh liên (楹聯): Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà, cơ quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính.
  • Hạ liên (賀聯): Câu đối chúc mừng, thường được dùng để chúc thọ, chúc sinh nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp v.v.
  • Vãn liên (挽聯): Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu tử vong.
  • Tặng liên (贈聯): Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến khích người khác.
  • Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với bút hoạch (thư pháp).
[sửa] Phân loại theo đặc điểm nghệ thuật

  • Điệp tự liên (疊字聯): Một chữ xuất hiện liên tục.
  • Phức tự liên (複字聯): Hai vế có chữ giống nhau nhưng không xuất hiện một cách trùng phức liên tục.
  • Đỉnh châm liên (頂針聯): Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại là chữ đầu của câu sau.
  • Khảm tự liên (嵌字聯): Bao gồm số, phương vị, tiết khí, niên hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên thuốc) v.v.
  • Xích (sách) tự liên (拆字聯): Mỗi hợp thể tự bên trong câu đối tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế hơn nữa là mở chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách chữ ra (tích tự 析字) v.v.
  • Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị âm cùng với điệp vận.
  • Hài thú liên (諧趣聯): Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.
  • Vô tình đối (無情對): Ý nghĩa trên dưới không tương quan một mảy may nào, chỉ chỉnh những chữ, từ. Phần lớn Vô tình đối này ít thấy ý vị, hoàn toàn có thể quy nhập vào Hài thú liên bên trên.
  • Hồi văn liên (回文聯): Đọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược (đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.
 
Câu đối Việt Nam

Câu đối Việt Nam được Dương Quảng Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:
  • Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới... Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm(Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
  • Câu đối phúng: làm để viếng người chết. Nhà chỉn rất nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tưởi chân nam chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm. (Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
  • Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp Tết Nguyên Đán. Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
  • Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ. Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc:Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnhSống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.(Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
  • Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi. Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng ềnh(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
  • Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác. Nếu giầu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấmViệc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giầu (trầu) nước)
  • Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt. Giơ tay với thử trời cao thấpXoạc cẳng đo xem đất ngắn dài(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
  • Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu. Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?
  • Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó. Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
  • Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở tục ngữ, ca dao. Gái có chông như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
  • Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa... Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến giàCon công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồngkềnh cổ lại(Câu đối có bốn chữ : cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
  • Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử. Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
  • Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ quyết tâm thu hàng tấn củ. Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam)
  • Da trắng vỗ bì bạch Vế đối này của Đoàn Thị Điểm, hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển Thế giới mới được coi là tạm ổn nhất.
Câu này là "Tay sơ sờ tí ti" có thể coi là được chăng,câu này có trong "Thế giới mới" Tí cũng là tay, tí ti là một chút xíu, cũng là một từ láy âm tay sơ là tay còn trong sạch, nguyên vẹn. Xin đóng góp thêm một câu đối về câu: "da trắng vỗ bì bạch" "rừng sâu mưa lâm thâm" hay "trời xanh màu thiên thanh"
 
Đối này:
Đường bác bác đi, bác đi đường bác.
Nhà tôi tôi ở, tôi ở nhà tôi
Chỉnh chưa nhỉ?

Câu đối của bạn vẫn chưa chuẩn tí nào. Bởi vì ở đây Chùa thầy nói lái lại cũng là thầy chùa và thầy chùa = thầy tu
Bạn nào đối chuẩn tôi mời một cử nhậu thịt cầy.
 
Quê em có 2 địa danh Lạc Quần và Quần Lạc. Đã từ lâu có nghe vế đối, chắc nay cũng có người đối được rồi, giới thiệu ra đây cho rôm rả: Con gái Quần Lạc, đi chợ Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần Lạc.
 
Mình lang thang trên mạng cũng thấy có 1 vế đối khá hay nhưng chưa thấy đối hoàn chỉnh. Mình đưa ra đây các thử xem sao nhé:

Trai Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi?

Xin lỗi anh em trong ấy nhé.
 
Đã có bài trên rồi bạn còn xin mời bạn thử sức với câu đối trên của mình nha
 
Goo trả lời :

  1. Anh thanh niên Cần Giờ nhanh nhảu: "Con trai Cần Giờ giơ cần hỏi cần giờ"
  2. Chị Hải Dương tiếp luôn: "con gái Hải Dương hưởng giai ngoài hải dương"
  3. Chú Hải Phòng đâu có kém cạnh: "Con trai Đồ Sơn sơn đồ bán đồ sơn"
  4. Em Hà Nội e thẹn: "Trai Hàng Chuối chuồi háng bảo hàng chuối"
  5. Anh bộ đội : Chàng trai Giải Phóng phỏng ... hô giải phóng
  6. Cậu nhỏ ở Thái Đức - Thái Nguyên : Trai Thái Đức thức đái khoe thái đức
  7. Đồng Mô - Hà Nội : Trai Đồng mô đồ mông vặn đồng mô?
Còn nhiều lắm nhưng cũng không chỉnh lắm!
Bắp à, mấy câu đầu, phải bỏ mấy cái chữ "con", chữ "chàng" đi thì mới tạm gọi là chuẩn!

Nói là "tạm", bởi vì:

Nguyên văn đề bài: Trai Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi

Chữ thứ 4 và 5 là lái lại của chữ thứ 2 và 3: Củ Chi <> Chỉ Cu

Do đó:

- Trai Cần Giờ giơ cần hỏi cần giờ: Lái với Cần Giờ mà là... giơ cần thì hơi ép!
- Trai Đồ Sơn sơn đồ bán đồ sơn: Cái này cũng rứa! Ép nhau quá...

Chỉ có mấy câu 2, 4, 5 và 6 là chuẩn thôi.

Câu thứ 7 cũng chuẩn, nhưng không hiểu nó nói cái gì...

Không biết nói vậy có đúng không?
 
Lần chỉnh sửa cuối:
Web KT

Bài viết mới nhất

Back
Top Bottom