Who Moved My Cheese ?

Liên hệ QC
As Haw recalled what he had learned, he thought about his friend Hem. He wondered if Hem had read any of the sayings Haw had written on the wall at Cheese Station P and throughout the Maze.
Trong lúc Chậm Chạp xem xét lại những bài học của mình, anh ta nghĩ về người bạn Ù Lì của mình. Anh không biết Ù Lì đã nhìn thấy những dòng chữ trên tường Kho Pho mát P và trong suốt Mê cung hay chưa.
Had Hem ever decided to let go and move on? Had he ever entered the Maze and discovered what could make his life better?
Ù Lì đã quyết định ra đi chưa nhỉ? Anh ta đã đi vào Mê cung và phát hiện ra những điều bổ ích cho mình chưa?
Or was Hem still hemmed in because he would not change?
Hay là Ù Lì vẫn còn đang Ù Lì ở đó vì anh sẽ không thay đổi?
Haw thought about going back again to Cheese Station P to see if he could find Hem – assuming that Haw could find his way back there. If he found Hem, he thought he might be able to show him how to get out of his predicament. But Haw realized that he had already tried to get his friend to change.
Chậm Chạp nghĩ tới chuyện quay trở lại Kho Pho mát P để xem thử Ù Lì có còn ở đó không – cứ cho là Chậm Chạp có thể lần trở lại được chổ đó. Nếu gặp lại Ù Lì anh nghĩ mình có thể chỉ cách cho anh ta ra khỏi hoàn cảnh khó khăn ấy. Nhưng đồng thời Chậm Chạp cũng nhận ra rằng trước đó anh đã cố gắng thay đổi bạn mình rồi.
Hem had to find his own way, beyond his comforts and past his fears. No one else could do it for him, or talk him into it. He somehow had to see the advantage of changing himself.
Ù Lì phải tìm lối đi cho riêng mình, vượt lên nỗi sợ hãi và tính ưa nhàn hạ của mình. Không ai có thể làm điều đó thay cho anh ta, cũng không ai có thể khuyên bảo anh ta được. Bằng cách nào đó anh ta phải tự nhận ra sự hữu ích trong chuyện thay đổi chính bản thân mình.
Haw knew he had left a trail for Hem and that he could find his way, if he could just read The Handwriting On The Wall.
Chậm Chạp biết mình đã để lại những hướng dẫn chỉ đường cho Ù Lì và rằng anh ta có thể tìm được hướng đi, nếu anh ta chịu đọc những dòng chữ trên tường.
He went over and wrote down a summary of what he had learned on the largest wall of Cheese Station N. He drew a large piece of cheese around all the insights he had become aware of, and smiled as he looked at what he had learned:
Anh ta nhìn lại và viết ra những điều mình đã học được lên bức tường lớn nhất ở Kho Pho mát M. Anh ta vẽ một bức tranh lớn một mẩu Pho mát xung quanh tất cả những suy nghĩ của mình, và mỉm cười khi anh ta nhìn lai những điều anh đã rút ra được:
014.jpg

  • Change Happens – They Keep Moving The Cheese
    Thay Đổi Luôn Xảy Ra – Chúng Lấy Đi Mất Pho Mát
  • Anticipate Change – Get Ready For The Cheese To Move
    Chấp Nhận Thay Đổi – Chuẩn Bị Với Tình Huống Pho Mát Bị Lấy Đi
  • Monitor Change – Smell The Cheese Often So You Know When It Is Getting Old
    Quan Sát Thay Đổi – Luôn Luôn Ngửi Pho Mát Để Biết Trước Khi Chúng Đang Cũ Đi
  • Adapt To Change Quickly – The Quicker You Let Go Of Old Cheese, The Sooner You Can Enjoy New Cheese
    Thích Ứng Với Thay Đổi Nhanh Chóng – Bạn Bỏ Pho Mát Cũ Đi Nhanh Chừng Nào Thì Bạn Có Thể Tìm Được Pho Mát Mới Nhanh Chừng Ấy
  • Change – Move With The Cheese
    Thay Đổi – Chuyển Dịch Với Sự Thay Đổi
  • Enjoy Change! – Savor The Adventure And Enjoy The Taste Of New Cheese!
    Thưởng Thức Thay Đổi – Nhấm Nháp Cuộc Phiêu Lưu Và Thưởng Thức Hương Vị Của Pho Mát Mới
  • Be Ready To Change Quickly And Enjoy It Again & Again – They Keep Moving The Cheese
    Chuẩn Bị Cho Thay Đổi Nhanh Chóng Và Thưởng Thức Chúng Lần Nữa – Những Miếng Pho Mát Luôn Bị Đổi Đi
 
Haw realized how far he had come since he had been with Hem in Cheese Station P, but knew it would be easy for him to slip back if he got too comfortable. So, each day he inspected Cheese Station N to see what the condition of his Cheese was. He was going to do whatever he could to avoid being surprised by unexpected change.
Chậm Chạp nhận thấy mình đã tiến bộ như thế nào từ khi anh ta còn ở với Ù Lì ở Kho Pho mát P, nhưng anh nhận thấy mình sẽ lại dễ dàng bị rơi vào tình trạng cũ nếu anh tỏ ra quá thoải mái với hoàn cảnh. Vì thế ngày nào anh cũng xem xét Kho Pho mát N, để xác định tình trạng của Pho mát ở đó. Anh cố gắng làm hết sức mình để khỏi bị bất ngờ khi có một sự thay đổi gì đó không mong muốn xảy ra.
While Haw still had a great supply of Cheese, he often went out into the Maze and explored new areas to stay in touch with what was happening around him. He knew it was safer to be aware of his real choices than to isolate himself in his comfort zone.
Trong khi Chậm Chạp vẫn đang có trong tay lượng Pho mát to lớn ấy, anh ta vẫn tiếp tục đi ra ngoài Mê cung và khám phá những khu vực mới để tìm hiểu mọi chuyện đang xảy ra chung quanh mình. Anh biết rằng nhận thức được những khả năng của mình vẫn an toàn hơn là tự mãn trong một cõi của mình.
Then, Haw heard what he thought was the sound of movement out in the Maze. As the noise grew louder, he realized that someone was coming.
Một ngày nọ đột nhiên Chậm Chạp nghe có tiếng bước chân trong Mê cung. Khi tiếng động ngày càng lớn hơn, anh nhận ra hình như có ai đó đang đến.
Could it be that Hem was arriving? Was he about to turn the corner?
Có thể nào đây là Ù Lì? Có thể nào anh ta đang bước qua góc tường?
Haw said a little prayer and hoped – as he had many times before – that maybe, at last, his friend was finally able to ...
Chậm Chạp cầu nguyện nho nhỏ và hy vọng – cũng như nhiều lần trước đây – có thể sẽ là, cuối cùng thì người bạn của của anh cũng đã có thể ...
015.jpg

Move With The Cheese And Enjoy It!
Di Chuyển Theo Pho Mát Và Hưởng Thụ Nó!
 
When Michael finished telling the story, he looked around the room and saw his former classmates smiling at him.
Khi Michael kết thúc câu chuyện, anh ta nhìn xung quanh phòng và thấy những người bạn cùng lớp cũ đang mỉm cười với mình.
Several thanked him and said they got a good deal out of the story.
Vài người lên tiếng cám ơn anh và nói rằng họ đã hiểu ra nhiều điều từ câu chuyện.
Nathan asked the group, “What would you think of getting together later and maybe discussing it?”
Nathan hỏi cả nhóm, “Một lát nữa chúng ta lại gặp nhau và nói về chuyện này chứ?”
Most of them said they would like to talk about it, and so they arranged to meet later for a drink before dinner.
Hầu hết đều đồng ý rằng họ muốn nói chuyện về điều này, và thế là họ hẹn nhau lát nữa gặp lại để uống chút đỉnh trước giờ ăn tối.
That evening, as they gathered in a hotel lounge, they began to kid each other about finding their “Cheese” and seeing themselves in the Maze.
Vào buổi tối hôm đó, trong khi tụ tập với nhau trong sảnh của một khách sạn, họ bắt đầu đùa trêu nhau về chuyện tìm kiếm “miếng Pho mát” của mình và nhìn thấy chính mình trong Mê cung.
Then Angela asked the group good-naturedly, “So, who were you in the story? Sniff, Scurry, Hem or Haw?”
Rồi Angela hỏi cả nhóm một cách rất tự nhiên, “Thế, các bạn là ai trong câu chuyện nào? Đánh Hơi, Nhanh Nhẹn, Chậm Chạp hay Ù Lì?”
Carlos answered, “Well, I was thinking about that this afternoon. I clearly remember a time before I had my sporting goods business, when I had a rough encounter with change. I wasn't Sniff – 1 didn't sniff out the situation and see the change early. And I certainly wasn't Scurry – 1 didn't go into action immediately. I was more like Hem, who wanted to stay in familiar territory. The truth is, I didn't want to deal with the change. I didn't even want to see it.”
Carlos trả lời, “Ờ, tôi đã nghĩ về câu chuyện suốt cả buổi chiều. Tôi còn nhớ rất rõ vào dạo trước, khi tôi kinh doanh dụng cụ thể thao, tôi đã phải đối mặt một cách khó chịu với một sự thay đổi. Tôi không phải là Đánh Hơi – tôi đã không thấy trước tình huống và thấy được thay đổi sớm hơn. Và tôi cũng không xử sự như Nhanh Nhẹn – tôi đã không hành động kịp thời. Tôi có vẻ giống như Chậm Chạp hơn, là người đã muốn yên thân trong lãnh địa của mình. Sự thật là tôi đã không hề muốn đối phó với thay đổi. Thậm chí tôi đã không muốn thừa nhận nó nữa.”
Michael, who felt like no time had passed since he and Carlos were close friends in school, asked, “What are we talking about here, buddy?”
Michael có cảm giác như chưa hề có một khoảng thời gian nào từ khi anh và Carlos quen thân nhau ở trường học, anh hỏi, “Cậu đang nói về chuyện gì vậy, Carlos?”
Carlos said, “An unexpected change of jobs.”
Carlos nói, “Một sự thay đổi trong công việc.”
Michael laughed. “You were fired?”
Michael bật cười, “Cậu bị đuổi việc à?”
“Well, let's just say I didn't want to go out looking for New Cheese. I thought I had a good reason why change shouldn't happen to me. So, I was pretty upset at the time.”
“Thôi thì cứ cho rằng tôi đã không chịu đi vào Mê cung để tìm kiếm Pho mát mới đi. Tôi nghĩ rằng mình có đầy đủ lý do để không phải chịu thay đổi. Thế cho nên tôi đã thất vọng ghê gớm lúc đó.”
 
Some of their former classmates who had been quiet in the beginning felt more comfortable now and spoke up, including Frank, who had gone into the military.
Vài người bạn từ nãy tới giờ vẫn im lặng đã cảm thấy tự tin hơn và bắt đầu lên tiếng, trong đó có cả Frank, một người lính đã xuất ngũ.
“Hem reminds me of a friend of mine,” Frank said. “His department was closing down, but he didn't want to see it. They kept relocating his people. We all tried to talk to him about the many other opportunities that existed in the company for those who wanted to be flexible, but he didn't think he had to change. He was the only one who was surprised when his department closed. Now he's having a hard time adjusting to the change he didn't think should happen.”
“Ù Lì nhắc cho tôi nhớ lại một người bạn cũ của mình,” Frank nói, “Phòng làm việc của cậu ấy phải giải thể, mà cậu ta lại không chịu nhìn nhận chuyện đó. Người ta vẫn tái sắp xếp nhân viên lại. Tất cả bọn tôi đều khuyên cậu ta vào những công việc đang có sẵn trong công ty vốn dành cho những người có thể xử sự linh động, nhưng cậu ấy không nghĩ rằng mình phải thay đổi. Cậu ấy là người duy nhất bất ngờ khi người ta giải thể cái phòng đó. Và rồi lúc đó cậu ta gặp khó khăn để ứng phó với nhũng thay đổi mà cậu ta nghĩ rằng sẽ không thể xảy ra.”
Jessica said, “I didn't think it should happen to me either, but my 'Cheese' has been moved more than once, especially in my personal life, but we can get to that later.”
Jessica nói. “Tôi cũng đã nghĩ rằng thay đổi lẽ ra không nên xảy ra với tôi, nhưng thực tế là “miếng Pho mát” của tôi đã bị lấy đi nhiều hơn một lần.”
Many in the group laughed, except Nathan.
Nhiều người trong bọn bật cười, trừ Nathan.
“Maybe that's the whole point,” Nathan said. “Change happens to all of us.” He added, “I wish my family had heard the Cheese story before this. Unfortunately we didn't want to see the changes coming in our business, and now it's too late – we're having to close many of our stores.”
“Có thể vấn đề là ở đó,” Nathan nói, “Thay đổi xảy ra xung quanh chúng ta.” Anh nói thêm, “Tôi ước gì gia đình chúng tôi đã nghe tới câu chuyện về miếng Pho mát này trước đây. Không may là chúng tôi không muốn nhìn nhận những thay đổi sẽ đến với công việc của chúng tôi, và rồi thì mọi chuyện trở nên muộn màng – chúng tôi phải đóng rất nhiều cửa tiệm.”
That surprised many in the group, because they thought Nathan was lucky to be in a secure business he could depend on, year after year.
Điều đó làm nhiều người trong bọn ngạc nhiên, vì họ tin rằng Nathan may mắn được có một công việc kinh doanh mà anh ta có thể tin tưởng, năm này sang năm khác.
“What happened?” Jessica wanted to know.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Jessica thắc mắc.
“Our chain of small stores suddenly became old fashioned when the mega-store came to town with its huge inventory and low prices. We just couldn't compete with that. I can see now that instead of being like Sniff and Scurry, we were like Hem. We stayed where we were and didn't change. We tried to ignore what was happening and now we are in trouble. We could have taken a couple of lessons from Haw – because we certainly couldn't laugh at ourselves and change what we were doing.”
“Dãy cửa hiệu của chúng tôi đột nhiên trở nên lạc hậu khi những của hàng to lớn xuất hiện trong thành phố với nguồn hàng khổng lồ và giá cả hạ. Bây giờ tôi có thể nhận ra thay vì làm như Đánh Hơi và Nhanh Nhẹn, chúng tôi lại giống như Ù Lì. Chúng tôi cứ giữ nguyên công việc và không chịu thay đổi. Chúng tôi cố gắng không thèm để ý tới tình hình, rồi chúng tôi đã gặp rắc rối. Lẽ ra chúng tôi đã có thể học được vài điều từ Chậm Chạp – bởi vì đúng là chúng tôi đã không thể tự cười chính mình và thay đổi cách làm của mình.”
Laura, who had become a successful business-woman, had been listening, but had said very little until now. “I thought about the story this afternoon too,” she said. “I wondered how I could be more like Haw and see what I'm doing wrong, laugh at myself, change and do better.”
Laura, người đã trở nên thành đạt trong việc kinh doanh, nãy giờ chỉ ngồi nghe mà không nói gì nhiều chợt lên tiếng. “Tôi cũng nghĩ tới câu chuyện này cả buổi chiều. Tôi không hiểu sao mình lại giống như Chậm Chạp hơn và nhận ra mình đang sai lầm điều gì – bật cười, thay đổi theo và mọi chuyện tốt đẹp hơn lên.”
She said, “I'm curious. How many here are afraid of change?” No one responded so she suggested, “How about a show of hands?”
Và rồi cô hỏi, “Tôi có điều này không hiểu. Có những ai trong số chúng ta ngại sự thay đổi?” Không ai trả lời, nên cô đề nghị, “Hay là giơ tay lên cũng được.”
Only one hand went up. “Well, it looks like we've got one honest person in our group!” she said. And then continued, “Maybe you'll like this next question better. How many here think other people are afraid of change?” Practically everyone raised their hands. Then they all started laughing.
Chỉ có một cánh tay đưa lên, “Coi nào, có vẻ như chúng ta đã có người thành thực nhất trong bọn rồi đấy!” cô nói, và rồi tiếp tục, “Có thể các bạn sẽ thích câu hỏi kế tiếp này hơn. Các bạn có nghĩ rằng mọi người khác đều sợ thay đổi?” Một cách tự giác mọi người đều giơ tay lên. Cả bọn bật cười.
“What does that tell us?”
“Điều này cho chúng ta biết cái gì?”
“Denial,” Nathan answered.
“Sự không thừa nhận.” Nathan trả lời.
 
“Sure,” Michael admitted. “Sometimes we're not even aware that we're afraid. I know I wasn't. When I first heard the story, I loved the question, 'What would you do if you weren't afraid?”
“Đúng đấy,” Michael thừa nhận. “Nhiều lúc chúng ta không nhận thức được chúng ta sợ cái gì. Tôi hiểu tôi cũng có lúc như thế. Khi tôi nghe câu chuyện này lần đầu, tôi thích câu hỏi: Người ta sẽ làm gì nếu không sợ hãi?”
Then Jessica added, “Well, what I got from the story is that change is happening everywhere and that I will do better when I can adjust to it quickly. I remember years ago when our company was selling our encyclopedia as a set of more than twenty books. One person tried to tell us that we should put our whole encyclopedia on a single computer disk and sell it for a fraction of the cost. It would be easier to update, would cost us so much less to manufacture, and so many more people could afford it. But we all resisted.”
Rồi Jessica nói thêm, “Tôi nhận ra từ câu chuyện này là thay đổi xảy ra khắp nơi và tôi sẽ làm tốt hơn nếu tôi có thể thích ứng với mọi chuyện nhanh hơn. Tôi còn nhớ nhiều năm trước đây khi công ty của chúng tôi bán ra một bộ tự diển bách khoa gồm hơn hai mươi cuốn. Một người đã cố công khuyên chúng tôi nên dồn chúng vào một cái đĩa và bán rẻ hơn. Như thế thì khi cập nhật sẽ dễ dàng hơn, và chi phí sản xuất cũng thấp hơn nữa, và có thể bán cho nhiều người hơn. Nhưng tất cả bọn tôi đã không nghe.”
“Why did you resist?” Nathan asked.
“Sao mà các bạn không nghe theo?” Nathan hỏi.
“Because, we believed then that the backbone of our business was our large sales force, who called on people door-to-door. Keeping our sales force depended on the big commissions they earned from the high price of our product. We had been doing this successfully for a long time and thought it would go on forever.”
“Vì chúng tôi cho rằng yếu tố quyết định của chúng tôi là lực lượng bán hàng, là những người bán lẻ giao hàng tận nhà. Chúng tôi giữ chân lực lượng bán hàng này bằng những khoản hoa hồng hậu hĩnh từ doanh số bán hàng của họ. Chúng tôi đã làm chuyện này khá lâu một cách thành công, và nghĩ rằng nó có thể kéo dài mãi.”
Laura said, “Maybe that's what it meant in the story about Hem and Haw's arrogance of success. They didn't notice they needed to change what had once been working.”
Laura nói, “Có lẽ đó là điều mà câu chuyện muốn nói khi kể về Chậm Chạp và Ù Lì đã tỏ ra tự mãn với thành công. Họ không để ý thấy rằng họ phải thay đổi chính cái điều mà trước đây còn thích hợp.”
Nathan said, “So you thought your old Cheese was your only Cheese?”
Nathan nói, “Có nghĩa là bạn nghĩ rằng Pho mát của bạn là Pho mát duy nhất của bạn?”
“Yes, and we wanted to hang on to it. When I think back on what happened to us, I see that it's not just that they 'moved the Cheese' but that the 'Cheese' has a life of its own and eventually runs out. Anyway, we didn't change. But a competitor did and our sales fell badly. We've been going through a difficult time. Now, another big technological change is happening in the industry and no one at the company seems to want to deal with it. It doesn't look good. I think I could be out of a job soon.”
“Đúng thế, và chúng tôi muốn duy trì nó mãi. Khi tôi nhìn nhận lại sự việc đã xảy ra, tôi hiểu ra rằng không phải chỉ là chuyện miếng Pho mát bị lấy đi, mà còn là chuyện miếng Pho mát có một cuộc sống riêng của nó nữa và thậm chí nó còn kết thúc nữa. Nói gì thì nói, chúng tôi đã không thay đổi. Nhưng một đối thủ cạnh tranh thì có và doanh số của chúng tôi suy giảm tệ hại. Chúng tôi đã trải qua một thời kỳ cực kỳ khó khăn. Và bây giờ đã có một sự đổi mới về công nghệ rất lớn trong ngành công nghiệp và có vẻ như chẳng ai trong công ty muốn đương đầu với thực tế đó. Mọi chuyện không có vẻ tốt đẹp tí nào. Tôi nghĩ cứ như thế này thì có lẽ tôi sẽ nhanh chóng phải mất việc thôi.”
“It's MAZE time!” Carlos called out. Everyone laughed, including Jessica.
“Tới lúc vào Mê cung rồi!” Carlos nói to lên. Mọi người đều cười, kể cả Jessica.
Carlos turned to Jessica and said, “It's good that you can laugh at yourself.”
Carlos quay sang nói với Jessica, “Nếu người ta có thể cười chính mình thì hay lắm.”
Frank offered, “That's what I got out of the story. I tend to take myself too seriously. I noticed how Haw changed when he could finally laugh at himself and at what he was doing. No wonder he was called Haw.”
Frank đưa ra ý kiến, “Đó là điều tôi rút ra được từ câu chuyện. Tôi có xu hướng trầm trọng hóa mọi vấn đề của mình. Tôi đã để ý tới cách Chậm Chạp thay đổi khi cuối cùng anh ta cũng đã tự cười chính bản thân mình và cả những chuyện mình đã làm nữa. Chẳng ngạc nhiên tí nào khi anh ta tên là Chậm Chạp.”
The group groaned at the obvious play on words.
Cả nhóm bật cười về sự chơi chữ rõ ràng ấy.
 
Angela asked, “Do you think that Hem ever changed and found New Cheese?”
Angela hỏi, “Các bạn có nghĩ rằng có bao giờ Ù Lì thay đổi để tìm thấy Pho mát không?”
Elaine said, “I think he did.”
Elaine nói, “Tôi nghĩ là có.”
“I don't,” Cory said. “Some people never change and they pay a price for it. I see people like Hem in my medical practice. They feel entitled to their 'Cheese.' They feel like victims when ifs taken away and blame others. They get sicker than people who let go and move on.”
“Còn tôi thì không,” Cory nói. “Có những người chẳng bao giờ thay đổi, và họ phải trả giá cho điều đó. Tôi biết có những người như Ù Lì trong khi hành nghề thầy thuốc của mình. Những người này nghĩ rằng họ được chỉ định miếng Pho mát của họ. Họ có cảm giác mình là nạn nhân khi nó bị lấy đi, và họ đổ lỗi cho người khác. Họ suy sụp hơn nhiều so với những người bỏ qua để tiến lên.”
Then Nathan said quietly, as though he was talking to himself, “I guess the question is: What do we need to let go of and what do we need to move on to?“
Rồi Nathan nói lặng lẽ, như anh chỉ nói với chính mình, “Tôi cho rằng câu hỏi đặt ra là: Chúng ta phải bỏ đi cái gì và chúng ta săn tìm cái gì?”
No one said anything for a while.
Trong một khoảng thời gian không ai lên tiếng.
“I must admit,” Nathan said, “I saw what was happening with stores like ours in other parts of the country, but I hoped it wouldn't affect us. I guess it's a lot better to initiate change while you can than it is to try to react and adjust to it. Maybe we should move our own Cheese.”
“Tôi phải thừa nhận rằng,” Nathan nói tiếp, “Tôi đã thấy chuyện gì sẽ đến với những cửa hàng giống như của chúng tôi ở những nơi khác rtên đất nước, nhưng tôi đã mong rằng nó sẽ không ảnh hưởng tới mình. Tôi nghĩ rằng biết trước thay đổi thì tốt hơn rất nhiều khi người ta cố gắng ứng phó và điều chỉnh cho thích hợp với nó. Có lẽ chúng ta nên di chuyển chính miếng Pho mát của mình.”
“What do you mean?” Frank asked.
“Bạn muốn nói gì?” Frank hỏi lại.
Nathan answered, “I can't help but wonder where we would be today if we had sold the real estate under all our old stores and built one great modern store to compete with the best of them.”
Nathan trả lời, “Tôi cứ mãi tự hỏi rằng bây giờ chúng tôi đã như thế nào nếu như chúng tôi bán tất cả những miếng đất của các của hàng đó và xây dựng chỉ một của hàng hiện đại để tập trung sức cạnh tranh mạnh nhất với họ.”
Laura said, “Maybe that's what Haw meant when he wrote on the wall: Savor the adventure and move with the Cheese.“
Laura nói, “Có thể đó là điều mà Chậm Chạp muốn nói khi viết lên tường câu: Nhấm nháp phiêu lưu và di chuyển cùng với miếng Pho mát.”
Frank said, “I think some things shouldn't change. For example, I want to hold on to my basic values. But I realize now that I would be better off if I had moved with the 'Cheese' a lot sooner in my life.”
Frank nói, “Tôi nghĩ cũng có chuyện không nên thay đổi. Lấy ví dụ tôi luôn muốn giữ lại giá trị cơ bản của tôi. Nhưng hiện giờ tôi cũng nhận ra rằng tôi đã khá hơn rất nhiều nếu tôi đã di chuyển sớm hơn nữa trong cuộc sống.”
“Well, Michael, it was a nice little story,” Richard, the class skeptic, said, “but how did you actually put it into use in your company?”
“Thế, Michael à, câu chuyện nhỏ này thật hay,” Richard, một người thuộc chủ nghĩa hoài nghi nói, “Nhưng bạn đã ứng dụng nó vào công ty như thế nào?”
The group didn't know it yet, but Richard was experiencing some changes himself. Recently separated from his wife, he was now trying to balance his career with raising his teenagers.
Cả nhóm chưa biết, nhưng Richard đã từng trải qua nhiều kinh nghiệm của chính bản thân mình. Anh vừa chia tay với người vợ của mình và đang cố gắng cân bằng giữa công việc và nuôi dạy đứa con mới lớn của mình.
Michael replied, “You know, I thought my job was just to manage the daily problems as they came up when what I should have been doing was looking ahead and paying attention to where we were going.
Michael trả lời, “Bạn biết đấy, tôi đã nghĩ rằng công việc của tôi chỉ là xử lý công việc hàng ngày khi chúng xảy ra, trong lúc lẽ ra cái tôi phải làm là nhìn tới phía trước và lưu ý tới điều mà chúng tôi sẽ gặp.”
“And boy did I manage those problems – twenty-four hours a day. I wasn't a lot of fun to be around. I was in a rat race, and I couldn't get out.”
“Và cách thức mà tôi xử lý chúng – suốt 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Tôi chẳng vui vẻ gì khi bị cuốn theo chúng. Cứ như đang ở trong một vòng quay điên cuồng và không thể thoát ra.”
Laura said, “So you were managing when you needed to be leading.”
Laura nói, “Thế là bạn đã cố gắng xử lý trong lúc lẽ ra bạn nên lèo lái tình thế.”
“Exactly,” Michael said. “Then when I heard the story of Who Moved My Cheese?, I realized my job was to paint a picture of 'New Cheese' that we would all want to pursue, so we could enjoy changing and succeeding, whether it was at work or in life.”
“Chính xác,” Michael nói. “Và rồi khi nghe câu chuyện ‘Pho mát của tôi đâu rồi?’, Tôi nhận ra rằng tôi đã cố công tô vẽ một bức tranh về ‘Pho mát mới’ mà chúng tôi muốn theo đuổi, để chúng tôi có thể hưởng được thú vui thay đổi và thành đạt, cho dù đó là ở trong công việc hay cuộc sống.”
 
Nathan asked, “What did you do at work?”
Nathan hỏi, “Bạn đã làm gì ở công việc?”
“Well, when I asked people in our company who they were in the Story, I saw we had every one of the four characters in our organization. I came to see that the Sniffs, Scurrys, Hems and Haws each needed to be treated differently.
“Thì tôi hỏi mọi người trong công ty rằng họ là ai trong câu chuyện. Tôi thấy chúng tôi có đầy đủ bốn nhân vật trong câu chuyện. Tôi bắt đầu hiểu ra rằng Đánh Hơi, Nhanh Nhẹn, Chậm Chạp và Ù Lì cần phải được đối xử khác nhau.”
“Our Sniffs could sniff out changes in the marketplace, so they helped us update our corporate vision. They were encouraged to identify how the changes could result in new products and services our customers would want. The Sniffs loved it and told us they enjoyed working in a place that recognized change and adapted in time.”
“Những anh chàng Đánh Hơi của chúng tôi có thể ngửi thấy những thay đổi của chúng tôi trên thị trường, từ đó có thể giúp chúng tôi cập nhật được những hình ảnh công ty của mình. Họ giúp xác định được lúc nào khách hàng của chúng tôi sẽ muốn có những thay đổi trong sản phẩm và dịch vụ của công ty. Những anh chàng Đánh Hơi thích điều đó và nói với chúng tôi rằng họ thích làm việc trong một tổ chức mà họ có thể nhận thấy những sự thay đổi và thích ứng được với nó kịp thời.”
“Our Scurrys liked to get things done, so they were encouraged to take actions, based on the new corporate vision. They just needed to be monitored so they didn't scurry off in the wrong direction. They were then rewarded for actions that brought us New Cheese. They liked working in a company that valued action and results.”
“Những anh chàng Nhanh Nhẹn thì thích hoàn thành công việc, cho nên họ được khuyến khích hành động, dựa trên những hình ảnh mới của công ty mình. Họ chỉ cần được theo dõi để không Nhanh Nhẹn làm chệch hướng. Và họ sẽ được tưởng thưởng cho những hành động mang về được Pho mát mới cho công ty. Họ thích được làm cho các công ty nào biết đánh giá cao hành động và hiệu quả.”
“What about the Hems and Haws?” Angela asked.
“Thế còn những Chậm Chạp và Ù Lì?” Angela hỏi.
“Unfortunately, the Hems were the anchors that slowed us down,” Michael answered. “They were either too comfortable or too afraid to change. Some of our Hems changed only when they saw the sensible vision we painted that showed them how changing would work to their advantage.
“Không may là những anh chàng Ù Lì là những cái mỏ neo kéo chậm chúng tôi lại,” Michael trả lời. “Họ hoặc là quá tự mãn hoặc là quá ngại thay đổi. Vài người trong bọn họ chỉ thay đổi chỉ khi nào chúng tôi vẽ ra cho họ thấy những hình ảnh đáng tin chỉ rõ ra rằng những thay đổi sẽ mang lại những điều tốt đẹp gì cho họ.”
“Our Hems told us they wanted to work in a place that was safe, so the change needed to make sense to them and increase their sense of security. When they realized the real danger of not changing, some of them changed and did well. The vision helped us turn many of our Hems into Haws.”
“Những anh chàng Ù Lì nói là họ thích làm việc trong một môi trường an toàn, thế nên những thay đổi là cần thiết để làm cho họ nhận thức rõ vấn đề và làm tăng ấn tượng an toàn. Khi họ nhận thấy mối nguy hiểm thực sự của chuyện không thay đổi, vài người trong bọn họ thay đổi và làm tốt. Những hình ảnh của chúng tôi vẽ ra đã làm một số người trong bọn họ trở thành Chậm Chạp.”
“What did you do with the Hems who didn't change?” Frank wanted to know.
“Thế cậu làm gì với những anh chàng Ù Lì không thay đổi?” Frank thắc mắc.
“We had to let them go,” Michael said sadly.
“Chúng tôi đành phải để cho họ ra đi,” Michael nói một cách không vui.
“We wanted to keep all our employees, but we knew if our business didn't change quickly enough, we would all be in trouble.”
“Chúng tôi muốn giữ chân nhân viên của mình, nhưng chúng tôi hiểu rằng nếu không thay đổi nhanh chóng thì tất cả sẽ gặp rắc rối.”
Then he said, “The good news is that while our Haws were initially hesitant, they were openminded enough to learn something new, act differently and adapt in time to help us succeed.
Và rồi anh nói tiếp, “Cũng tốt là những anh chàng Chậm Chạp mới đầu thì vẫn Chậm Chạp, nhưng họ đủ cởi mở để học được những điều mới, hành động khác đi và thích ứng kịp thời để giúp chúng tôi thành công.”
“They came to expect change and actively look for it. Because they understood human nature, they helped us paint a realistic vision of New Cheese that made good sense to practically everyone.
“Họ trở nên mong đợi thay đổi và chủ động tìm kiếm nó. Bởi vì họ hiểu nhân tính tự nhiên và thực tế họ đã giúp chúng tôi vẽ nên một hình ảnh về Pho mát mới có vẻ dễ hiểu hơn cho tất cả mọi người.”
“They told us they wanted to work in an organization that gave people the confidence and tools to change. And they helped us keep our sense of humor as we went after our New Cheese.”
“Họ nói với chúng tôi rằng họ thích được làm việc trong một tổ chức có cho người ta sự tự tin và phương tiện để thay đổi. Và họ giúp chúng tôi giữ được tính hài hước trong lúc đi tìm Pho mát Mới của mình.”
Richard commented, “You got all that from a little story?”
Richard bắt đầu, “Bạn nghĩ ra tất cả mọi thứ như thế từ câu chuyện này?”
Michael smiled. “It wasn't the story, but what we did differently based on what we took from it.”
“Đó không phải là một câu chuyện. Nhưng dựa vào đó mà chúng tôi đã học được cách xử sự khác đi.”
 
Angela admitted, “I'm a little bit like Hem, so for me, the most powerful part of the story was when Haw laughed at his fear and went on to paint a picture in his mind where he saw himself enjoying 'New Cheese.' It made going into the Maze less fearful and more enjoyable. And he eventually got a better deal. That's what I want to do more often.”
Angela thừa nhận, “Tôi có vẻ hơi giống như Chậm Chạp, vì thế đối với tôi, phần gây ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là lúc nói về Chậm Chạp cười vào chính bản thân mình và bắt đầu vẽ nên cảnh tượng về nơi mà anh ta thưởng thức được món ‘Pho mát Mới’ của mình. Điều đó làm cho việc đi vào Mê cung bớt đáng sợ đi và thú vị hơn. Và cuối cùng anh ta cũng có được một kết quả tốt. Đó là điều mà tôi muốn làm thường xuyên hơn.”
Frank grinned. “So even Hems can sometimes see the advantage of changing.”
Frank cười tươi tỉnh. “Thế là thỉnh thoảng ngay cả Chậm Chạp cũng có thể thấy được ích lợi của sự thay đổi?”
Carlos laughed, “Like the advantage of keeping their jobs.”
Carlos cười. “Cũng giống như ích lợi khi giữ lấy công ty của mình.”
Angela added, “Or even getting a good raise.”
Angel thêm vào, “Hay ngay cả một dịp tăng lương đáng kể.”
Richard, who had been frowning during the discussion, said, “My manager's been telling me our company needs to change. I think what she's really telling me is that / need to, but I haven't wanted to hear it. I guess I never really knew what the 'New Cheese' was that she was trying to move us to. Or how I could gain from it.”
Richard, nhíu mày suốt cuộc thảo luận, chợt lên tiếng, “Xếp tôi cứ nói rằng công ty của mình phải thay đổi. Tôi cứ nghĩ bà ấy muốn nói với tôi rằng tôi cần thay đổi, nhưng tôi đã không muốn nghe tới điều đó. Tôi cho rằng tôi chưa hiểu bà ta muốn đưa chúng tôi đến Pho mát Mới nào. Hay là chúng tôi phải làm gì để có thể đạt được nó.”
A slight smile crossed Richard's face as he said, “I must admit I like this idea of seeing 'New Cheese' and imagining yourself enjoying it. It lightens everything up. When you see how it can make things better, you get more interested in making the change happen.
Một cái cười nhẹ nhàng thoáng qua trên khuôn mặt Richard khi anh nói, “Tôi phải thú nhận rằng cái ý nghĩ về tìm thấy Pho mát mới và hình ảnh các bạn thưởng thức nó làm mọi chuyện sáng sủa hơn lên. Khi nào người ta thấy mọi chuyện được làm cho tốt đẹp hơn, người ta sẽ thích thú với chuyện tạo ra sự thay đổi.”
“Maybe I could use this in my personal life,” he added. “My children seem to think that nothing in their lives should ever change. I guess they're acting like Hem – they're angry. They're probably afraid of what the future holds. Maybe I haven't painted a realistic picture of 'New Cheese' for them. Probably because I don't see it myself.”
“Có thể tôi sẽ áp dụng câu chuyện này cuộc sống thực tế của mình,” anh nói thêm. “mấy đứa con của tôi có vẻ như luôn nghĩ rằng sẽ không có chuyện gì trong cuộc sống của chúng phải thay đổi. Tôi nghĩ rằng chúng đang xử sự như Ù Lì – chúng giận dỗi. Có lẽ chúng e ngại những điều đang đợi chờ trong tương lai. Có thể là do tôi đã không vẽ nên được một hình ảnh Pho mát Mới rõ ràng cho chúng. Cũng có thể là do chính tôi nữa cũng chưa thấy được điều đó.”
The group was quiet as several people thought about their own lives.
Cả nhóm ngồi yên lặng một lúc trong khi nghĩ về cuộc sống riêng của chính mỗi người.
“Well,” Jessica said, “most people here have been talking about jobs, but as I listened to the story, I also thought about my personal life. I think my current relationship is 'Old Cheese' that has some pretty serious mold on it.”
“Thế,” Jessica nói, “Hầu hết mọi người ở đây nói chuyện về công việc, nhưng trong khi nghe kể chuyện tôi đã nghĩ tới cuộc sống riêng tư của mình. Tôi nghĩ rằng mối quan hệ của mình hiện giờ đã như một miếng ‘Pho mát cũ’, và đã có mốc meo trong đó.”
Cory laughed in agreement. “Me too. I probably need to let go of a bad relationship.”
Cory bật cười đồng ý. “Tôi cũng thế. Có lẽ tôi cũng cần bỏ mối quan hệ cũ đó đi.”
Angela countered, “Or, perhaps the 'Old Cheese' is just old behavior. What we really need to let go of is the behavior that is the cause of our bad relationships. And then move on to a better way of thinking and acting.”
Angela phản đối, “Nhưng có thể miếng ‘Pho mát cũ’ đó chỉ là cách xử sự cũ. Cái mà chúng ta thực sự phải bỏ đi là cách xử sự cũ đã làm xấu đi mối quan hệ ấy. Và hãy đi tìm một cách nghĩ và hành động tốt hơn.”
“Ouch!” Cory reacted. “Good point. The New Cheese is a new relationship with the same person.”
“Ôi!” Cory nói. “Hay đấy. Miếng Pho mát mới ấy là mối quan hệ mới với cùng một con người.”
Richard said, “I'm beginning to think there is more to this than I thought. I like the idea of letting go of old behavior instead of letting go of the relationship. Repeating the same behavior will just get you the same results.
Richard nói, “Tôi đang bắt đầu nhận ra từ câu chuyện này nhiều điều hơn tôi đã từng nghĩ. Tôi thích cái cách nghĩ bỏ đi cách xử sự cũ thay vì bỏ đi mối quan hệ. Lặp lại cách xử sự cũ ấy chỉ sẽ đem lại cho người ta một kết cuộc giống nhau.”
“As far as work goes, maybe instead of changing jobs, I should be changing the way I am doing my job. I'd probably have a better position by now if I did.”
“Cũng như vậy với công việc, có lẽ thay vì đổi việc làm tôi nên thay đổi cách làm việc của mình. Nếu tôi đã làm như thế thì giờ đây có thể tôi đã có một vị trí khá hơn.”
 
Then Becky, who lived in another city but had returned for the reunion, said, “As I was listening to the story and to everyone's comments here, I've had to laugh at myself. I've been like Hem for so long, hemming and hawing and afraid of change. I didn't realize how many other people did this as well. I'm afraid I've passed it on to my children without even knowing it.
Và rồi Becky, đang sống ở một thành phố khác vừa mới trở về dự buổi họp mặt lớp, nói, “Khi tôi nghe cậu chuyện và mọi người tranh luận với nhau, tôi đã bật cười chính mình. Tôi đã như Ù Lì quá lâu, Ù Lì và Chậm Chạp trước mọi thay đổi. Tôi đã không nhận ra đã có rất nhiều người làm tốt chuyện này như thế nào rồi. Tôi sợ rằng mình đã vô tình dạy cho con cái cách cư xử của mình.”
“As I think about it, I realize change really can lead you to a new and better place, although you're afraid it won't at the time.
“Trong lúc tôi nghĩ về chuyện ấy, tôi nhận ra rằng chuyện thay đổi thật ra có thể đưa người ta tới với một vị trí mới và tốt hơn, cho dù trước đó người ta đã e ngại rằng sự việc sẽ không như thế.”
“I remember a time when our son was a sophomore in high school. My husband's job required us to move from Illinois to Vermont and our son was upset because he had to leave his friends. He was a star swimmer and the high school in Vermont had no swim team. So, he was angry with us for making him move.
“Tôi nhớ có lần khi con trai tôi đang học năm thứ hai trung học. Chồng tôi phải thuyên chuyển công tác và chúng tôi phải chuyển chổ ở từ Illinoise đến Vermont và con trai tôi đã rất buồn vì nó phải chia tay với bạn bè của nó. Nó vốn là một ngôi sao bơi lội mà trường học ở Vermont lại không có đội bơi lặn. Và thế là nó giận dỗi vì chúng tôi bắt nó phải đi.”
“As it turned out, he fell in love with the Vermont mountains, took up skiing, skied on his college team and now lives happily in Colorado.
“Và rồi thì nó đã yêu thích những ngọn núi ở Vermont, chuyển sang trượt tuyết, trượt băng với đội của nó và bây giờ thì nó đang sống ở Colorado một cách vui vẻ.”
“If we had all enjoyed this Cheese story together, over a cup of hot chocolate, we could have saved our family a lot of stress.”
“Nếu tất cả mọi người chúng ta yêu thích câu chuyện Pho mát này, trong lúc thưởng thức một tách cacao nóng, chúng ta có thể tránh cho gia đình mình khỏi phải bị stress nhiều lắm.”
Jessica said, “I'm going home to tell my family this story. I'll ask my children who they think I am – Sniff, Scurry, Hem or Haw – and who they feel they are. We could talk about what we feel our family's Old Cheese is and what our New Cheese could be.”
Jessica nói, “Tôi sẽ về và kể cho gia đình tôi nghe câu chuyện này. Tôi phải hỏi lũ trẻ xem chúng nó nghĩ tôi là ai trong truyện – Đánh Hơi, Nhanh Nhẹn, Chậm Chạp và Ù Lì – và chúng nghĩ chúng là ai. Chúng tôi có thể nói chuyện về điều mà chúng tôi nghĩ về miếng Pho mát của gia đình và Pho mát Mới có thể sẽ là cái gì.”
“That's a good idea,” Richard said, surprising everyone – even himself.
“Hay đấy,” Richard nói và câu nói đó làm mọi người ngạc nhiên – ngay cả chính anh ta nữa.
Frank then commented, “I think I'm going to be more like Haw and move with the Cheese and enjoy it! And I'm going to pass this story along to my friends who are worried about leaving the military and what the change might mean to them. It could lead to some interesting discussions.”
Frank đưa ý kiến, “Tôi nghĩ tôi giống như Chậm Chạp nhiều hơn và di chuyển theo Pho mát và thưởng thức nó! Tôi sẽ kể lại câu chuyện này cho những người bạn đang e ngại chuyện xuất ngũ của tôi và giải thích những thay đổi có thể có ý nghĩa gì đối với họ. Có thể sẽ có những cuộc nói chuyện thú vị đấy.”
Michael said, “Well, that's how we improved our business. We had several discussions about what we got from the Cheese story and how we could apply it to our situation. It was great because we had language that was fun for us to use to talk about how we were dealing with change. It was very effective, especially as it spread deeper into the company.”
Michael nói, “Thế, đó là cách chúng ta cải thiện công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta đã có vài cuộc nói chuyện về những điều mà chúng ta tìm thấy từ chuyện Pho mát và là cách chúng ta áp dụng vào trường hợp của chúng ta. Tuyệt vời ở chổ một điều là chúng ta đã có được cách mang lại niềm vui cho mình khi sử dụng để nói về chuyện chúng ta xử lý thay đổi. Điều đó rất hiệu quả, nhất là khi nó đi vào công ty một cách sâu rộng.”
Nathan asked, “What do you mean by 'deeper'?”
Nathan nói, “Ý bạn ‘sâu rộng’ là như thế nào?”
“Well, the further we went into our organization, the more people we found who felt they had less power. They were understandably more afraid of whatthe change imposed from above might do to them. So they resisted change.
“Là thế này, chúng ta càng đi sâu vào công tác tổ chức của mình thì chúng ta càng phát hiện ra có nhiều người đang cảm thấy họ thiếu năng lực. Sẽ dễ hiểu khi họ sẽ càng cảm thấy e ngại hơn đối với hậu quả sẽ xảy ra cho họ từ những thay đổi bắt buộc từ cấp trên của mình. Và thế nên họ tránh thay đổi.”
“In short, a change imposed is a change opposed.”
“Nói ngắn gọn là một sự thay đổi áp đặt là một sự thay đổi bị phản đối.”
But when the Cheese Story was shared with literally everyone in ourorganization, it helped us change the way we looked at change. It helped everyone laugh, or at least smile, at their old fears and want to move on.
“Nhưng khi câu chuyện về Pho mát được chia sẻ theo nghĩa đen cho mọi người trong tổ chức, thì nó sẽ giúp chúng tôi nhìn khác đi về thay đổi. Nó giúp cho mọi người sẽ bật cười, hay ít nhất là mỉm cười đối với những nỗi sợ trước đây của mình và muốn tiến lên.”
“I only wished I'd heard the Cheese story sooner,” Michael added.
“Ước gì tôi đã nghe câu chuyện về Pho mát sớm hơn nữa,” Michael nói thêm.
“How come?” Carlos asked.
“Sao vậy?” Carlos hỏi.
“Because by the time we got around to addressing the changes, our business had already fallen off so badly that we had to let people go, as I said earlier, including some good friends. It was hard on all of us. However, those who stayed and most of those who left said the Cheese story helped them see things differently and eventually cope better.
“Vì khi chúng tôi loay hoay để xác định thay đổi thì công việc của chúng tôi đã thực sự tồi tệ, đến nỗi chúng tôi phải cho nhân viên nghỉ việc, như hồi nãy tôi đã nói đấy, trong đó có cả một số người đã thân thiết với chúng tôi. Đó là điều thực sự khó khăn với chúng tôi. Dù vậy những người ở lại và nhiều người ra đi đã nói là cân chuyện về Pho mát đã giúp họ nhìn sự việc khác đi và đương dầu tốt hơn.”
“Those who had to go out and look for a new job said it was hard at first but recalling the story was a great help to them.”
“Những người phải ra đi tìm việc khác kể rằng thoạt tiên mọi chuyện khó khăn lắm, nhưng khi nhớ lại câu chuyện đã giúp họ tốt hơn.”
 
Angela asked, “What helped them most?”Michael replied, “After they got past their fear, they told me the best thing wasrealizing that there was New Cheese out there just waiting to be found!
Angela hỏi, “Điều gì có ích cho họ nhất?”Michael trả lời, “Sau khi họ vượt qua được nỗi sợ hãi, họ kể với tôi rằng điều hay nhất mà họđã nhận ra được là Pho mát mới đang thật sự nằm ngoài kia để chờ họ tìm ra!”
“They said holding a picture of New Cheese in their minds – seeing themselves doing well in a new job – made them feel better, and helped them do better in job interviews. Several got better jobs.”
“Họ nói việc khắc họa một hình ảnh về Pho mát Mới trong trí – nhìn thấy chính họ làm việctốt trong công việc mới – đã giúp họ cảm thấy dễ chịu hơn, và giúp họ tốt hơn khi đi phỏngvấn. Vài người đã tìm được những công việc thích hợp hơn.”
Laura asked, “What about the people who remained in your company?”
Laura hỏi, “Thế còn những người ở lại với công ty của bạn?”
“Well” Michael said, “instead of complaining about the changes that were happening, people now said, 'They just moved our Cheese. Let's look for the New Cheese.' It saved a lot of time and reduced stress.
“Thì,” Michael nói, “thay vì phàn nàn về những thay đổi đang diễn ra, mọi người bảo nhau,‘Pho mát của chúng ta bị lấy đi rồi, phải tìm Pho mát Mới thôi’. Điều đó làm tiết kiệm thời gian và giảm stress.”
“Before long, the people who had been resisting saw the advantage of changing. They even helped bring about change.”
“Rồi ngay sau đó, những người từng né tránh đã nhận ra ích lợi của sự thay đổi. Thậm chí họ còn góp tay mang lại thay đổi.”
Cory said, “Why do you think they changed?”
Cory hỏi, “Sao bạn lại nghĩ rằng họ đã thay đổi?”
“They changed after the peer pressure in our company changed.”
“Họ thay đổi sau khi áp lực phải làm theo nhau trong công ty thay đổi.”
He asked, “What happens in most organizations you've been in when a change is announced by top management? Do most people say the change is a great idea or a bad idea?”
Anh hỏi, “Khi mà ban lãnh đạo cao cấp trong những tổ chức của của bạn ra thông báo thay đổi thì điều gì xảy ra? Phần lớn người ta sẽ cho đó là ý kiến tốt hay tồi tệ?”
“A bad idea,” Frank answered.
“Ý kiến tồi tệ.” Frank trả lời.
“Yes” Michael agreed. “Why?”
“Đúng là vậy,” Michael đồng ý. “Nhưng tại sao lại như thế?”
Carlos said, “Because people want things to stay the same and they think the change will be bad for them. When one person says the change is a bad idea, others say the same.” “Yes, they may not really feel that way,” Michael said, “but they agree in order to fit in. That's the sort of peer pressure that fights change in any organization.”
Carlos nói, “Vì người ta muốn mọi chuyện cứ giống nhau đều đều như thế, và họ nghĩ nếu có thay đổi thì họ sẽ bị bất lợi. Mà khi có ai đó đã nói rằng thay đổi là điều tồi tệ thì ai cũng sẽ nói theo như thế.”“Đúng thế, cho dù họ không thực sự nghĩ như thế,” Michael nói, “Nhưng họ đồng ý để theo hùa với nhau. Đó là vấn đề về áp lực phải làm cho giống nhau trong bất cứ một tổ chức nào.”
Becky asked, “So how were things different after people heard the Cheese story?”
Becky hỏi, “Thế mọi chuyện đã khác đi như thế nào sau khi mọi người nghe chuyện về Pho mát?”
Michael said simply, “The peer pressure changed. No one wanted to look like Hem!”
Michael nói đơn giản. “Áp lực đó đã thay đổi vì không ai muốn giống như Ù Lì cả!”
Everyone laughed.
Mọi người đều bật cười.
“They wanted to sniff out the changes ahead of time and scurry into action, rather than get hemmed in and be left behind.”
“Họ muốn Đánh Hơi được trước những thay đổi đang đến và Nhanh Nhẹn lao vào hành động, thay vì Ù Lì và bị bỏ lại phía sau.”
Nathan said, “That's a good point. No one in our company would want to look like Hem. They might even change. Why didn't you tell us this story at our last reunion? This could work.”
Nathan nói, “Đó là một ý hay. Không có ai trong công ty của tôi muốn giống như Ù Lì. Thậmchí họ còn tự thay đổi nữa. Sao bạn không kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này trong cuộchọp mặt năm vừa qua? Có thể sẽ hay đấy.”
Michael said, “It does work.”
Michael nói, “Chắc chắn là hay rồi.”
“It works best, of course, when everyone in your organization knows the story – whether it is in a large corporation, a small business, or your family – because an organization can only change when enough people in it change.”
“Nhưng tốt nhất, dĩ nhiên là, khi mọi người trong công ty của bạn biết câu chuyện này – bất kể là tổ chức lớn hay nhỏ hay trong công việc gia đình của bạn – vì một tổ chức chỉ có thể thay đổi khi có một số lượng người nhất định trong đó thay đổi.”
Then he offered one last thought. “When we saw how well it worked for us, we passed the story along to people we wanted to do business with, knowing they were also dealing with change. We suggested we might be their 'New Cheese' that is, better partners for them to succeed with. It led to new business.”
Anh ta đưa ra ý kiến sau cùng: “Khi chúng ta đã nhận thấy nó giúp ích cho chúng ta như thế nào, chúng ta hãy chuyền câu chuyện này cho những người mà chúng ta muốn làm việc cùng với họ, với nhận thức rằng họ cũng đang đối phó với thay đổi. Chúng ta dề nghị rằng chúng ta là Pho mát Mới cho họ – nghĩa là, một đối tác tốt hơn để cùng thành công với nhau. Điều đó tạo nên công việc làm ăn mới.”
That gave Jessica several ideas and reminded her that she had some early sales calls in the morning. She looked at her watch and said, “Well, it's time for me to leave this Cheese Station and find some New Cheese.”
Câu nói làm Jessica nghĩ ra vài điều và nhớ ra rằng cô phải gọi vài cuộc điện thoại bán hàng vào sáng sớm ngày mai. Cô nhìn đồng hồ và nói, “Nào, tôi phải rời cái Kho Pho mát này rồi và phải đi tìm Pho mát mới đây.”
The group laughed and began saying their goodbyes. Many of them wanted to continue the conversation but needed to leave. As they left, they thanked Michael again.
Cả nhóm cười và bắt đầu chào tạm biệt nhau. Nhiều người vẫn còn muốn tiếp tục nói chuyện nhưng cũng đã đến lúc phải về. Trong lúc ra về họ lại cám ơn Michael lần nữa.
He said, “I'm very glad you found the story so useful and I hope that you will have the opportunity to share it with others soon.”
Anh nói, “Tôi rất vui khi các bạn thấy câu chuyện này hữu ích như thế, và tôi cũng mong rằng các bạn sẽ sớm có dịp chia sẻ nó với những người khác nữa.”

The End
 
Web KT
Back
Top Bottom