- Tham gia
- 13/6/06
- Bài viết
- 7,201
- Được thích
- 24,664
Ký sự "quá giang": Vị đắng của những chuyến đi xa
(VietNamNet)- Cũng chỉ là mượn chuyện người khác mà nói tâm sự của mình. Thật ra thời nào có khó khăn của thời đó, điều quan trọng là khó khăn có được thay đổi hay không. Rõ ràng những khó khăn trong bài ký sự gần như không còn nữa những cũng không phải mọi chuyện đã trở nên dễ dàng trôi qua.
Bài này đăng trên báo Xuân Tuổi Trẻ năm 1989, 17 năm trước. Có lẽ là lần đầu tiên cụm thuật ngữ "ký sự quá giang" được sử dụng trên báo.
VietNamNet trân trọng giới thiệu ghi chép này của nhà báo Trần Ngọc Châu. "Ôn cố tri tân", nhìn lại quá khứ để vui mừng, tự hào trước thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước. Cũng để mỗi người tự nhắc nhau: còn rất nhiều việc phải làm để Việt Nam bay lên, thoát khỏi cảnh tụt hậu, thua kém với người.
Về một thời không dám nhận mình là người Việt
Một đồng chí giám đốc thuộc loại trẻ, có học thức, sau khi kể với tôi chuyện đi Tây, đã than: "Phải chi nhà báo các ông được đi nhiều để viết cho dân mình, cán bộ mình cùng đọc, cùng hiểu cái thân phận nghèo nhất thế giới của chúng ta mà đủ nhục như cái nhục mất nước, vậy mới quyết chí vươn lên nổi".
Nhưng thưa bạn đọc, nếu chờ tới lượt mình đi nước ngoài thì "còn khuya" nên tôi mạn phép mượn lời kể của những nhà quản lý mà tôi đã gặp sau những chuyến đi học tập bên xứ người để viết bài ký sự dưới đây.
Có một người ngoại quốc từng muốn: "Ngủ một giấc, sáng ra thấy mình là người Việt Nam". Câu nói này hình như chỉ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích!
Lần đầu tiên đến Thái Lan, ngồi đợi ở sân bay Bangkok, tôi thấy một đoàn người xếp hàng dài dưới nắng mà không được vào ga. Hỏi ra mới biết đó là những thanh niên Việt Nam chờ máy bay chở đi lao động ở Trung Đông. Họ không được phép vào ngồi đợi máy bay ở nhà ga như những hành khách khác.
Tôi không hiểu tại sao nhưng cảm thấy nhục vì người Việt Nam mình đi nước ngoài, nhất là các nước tư bản, là phải đi qua cửa ngõ sân bay Bangkok - thay vì chỉ cần qua của ngõ Tân Sơn Nhất của ta - rồi từ đó mới đáp may bay đi tiếp. Cho nên phải chịu bao cảnh ngang trái đau lòng.
Trở lại chuyến đi lao động ở Trung Đông. Một người bạn ngồi ở phi trường với tôi hôm đó kể rằng: người Việt Nam đi Trung đông để đào kênh qua sa mạc, lao động cực nhọc, thỉnh thoảng còn bị đánh đập, vì nước người ta là tư bản. Có anh xa vợ lâu ngày mà bên Trung Đông cái khoản phụ nữ là đặc biệt cấm kỵ nên khi về đến Thái Lan, bao nhiêu tiền dành dụm đem ra ăn chơi xả láng và mắc bệnh không dám về nước nữa.
Nhân chuyện này tôi nhớ có lần đi dự một hội nghị du lịch ở Tiệp Khắc, ở đó, tôi đã xem trên truyền hình một bộ phim tài liệu hình sự, diễn ra cảnh các thanh niên Việt Nam lao động hợp tác tại Tiệp Khắc thanh toán nhau bằng búa. Tôi chợt hiểu tại sao tôi đón mãi mà xe buýt không dừng, đến khi mang huy hiệu phái đoàn Nhật thì mới đón được xe. Cũng không lạ gì cảnh người Việt Nam ở Matxcơva không dám chào nhau bằng tiếng Việt vào thời điểm có một thanh niên Việt Nam giết một cảnh sát vì bị bắt quả tang nấu rượu lậu.
Còn đâu huyền thoại về người Việt Nam anh hùng? Khi tôi đến nước Pháp hào hoa, đi ăn ở nhà hàng với mấy anh bạn Việt kiều, mấy ông khách bàn bên cạnh thấy chúng tôi là người châu Á, hỏi: "Mày là người nước nào?" Tôi chưa kịp trả lời đã nghe người bạn Việt kiều: "Người Nhật". "A, ông khách ngoại quốc kêu lên - nước Nhật của ông giỏi lắm. Xin cụng ly chúc mừng ông!".
Một lần khác tôi được giới thiệu là người Phi Luật Tân, thì người ta nói: "Nước ông còn đỡ hơn Việt Nam". Ở Matxcơva tôi thử nói người Trung Quốc xem sao thì được câu trả lời: "Ông nên gửi hàng thêm. Hàng của nước ông tốt lắm. Còn hàng Việt Nam ở Nga thì quá tệ".
Đó chỉ là những câu nói vô tình vì họ không biết tôi là người Việt và chính vì vậy, những câu nói đó chứa đầy vị đắng của sự thật.
Lâu nay chúng ta cứ đóng cửa ca ngợi nhau mà không biết thế giới đang ngày càng vượt quá xa chúng ta. Có dịp đi bàn chuyện buôn bán làm ăn ở một nước Tây Âu tôi mới thấy hết cái lạc hậu của mình.
Ở một nước tư bản, cán bộ kinh doanh của ta khi ngồi vào bàn đàm phán còn hỏi: "Các ông huy động vốn, được cấp vốn bao nhiêu?". Mà không biết rằng họ là tư bản, làm gì có khái niệm "cấp" hay "huy động" như chúng ta. Một điều đáng buồn nữa là trong khi thế giới người ta đã quan niệm quan hệ là: "hai bên cùng có lợi" thì cán bộ ta cứ nghĩ chuyện "đề nghị tài trợ, giúp đỡ, nghĩa là cứ tính chuyện... xin - cho".
(VietNamNet)- Cũng chỉ là mượn chuyện người khác mà nói tâm sự của mình. Thật ra thời nào có khó khăn của thời đó, điều quan trọng là khó khăn có được thay đổi hay không. Rõ ràng những khó khăn trong bài ký sự gần như không còn nữa những cũng không phải mọi chuyện đã trở nên dễ dàng trôi qua.
Bài này đăng trên báo Xuân Tuổi Trẻ năm 1989, 17 năm trước. Có lẽ là lần đầu tiên cụm thuật ngữ "ký sự quá giang" được sử dụng trên báo.
VietNamNet trân trọng giới thiệu ghi chép này của nhà báo Trần Ngọc Châu. "Ôn cố tri tân", nhìn lại quá khứ để vui mừng, tự hào trước thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước. Cũng để mỗi người tự nhắc nhau: còn rất nhiều việc phải làm để Việt Nam bay lên, thoát khỏi cảnh tụt hậu, thua kém với người.
Về một thời không dám nhận mình là người Việt
Một đồng chí giám đốc thuộc loại trẻ, có học thức, sau khi kể với tôi chuyện đi Tây, đã than: "Phải chi nhà báo các ông được đi nhiều để viết cho dân mình, cán bộ mình cùng đọc, cùng hiểu cái thân phận nghèo nhất thế giới của chúng ta mà đủ nhục như cái nhục mất nước, vậy mới quyết chí vươn lên nổi".
Nhưng thưa bạn đọc, nếu chờ tới lượt mình đi nước ngoài thì "còn khuya" nên tôi mạn phép mượn lời kể của những nhà quản lý mà tôi đã gặp sau những chuyến đi học tập bên xứ người để viết bài ký sự dưới đây.
Có một người ngoại quốc từng muốn: "Ngủ một giấc, sáng ra thấy mình là người Việt Nam". Câu nói này hình như chỉ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích!
Lần đầu tiên đến Thái Lan, ngồi đợi ở sân bay Bangkok, tôi thấy một đoàn người xếp hàng dài dưới nắng mà không được vào ga. Hỏi ra mới biết đó là những thanh niên Việt Nam chờ máy bay chở đi lao động ở Trung Đông. Họ không được phép vào ngồi đợi máy bay ở nhà ga như những hành khách khác.
Tôi không hiểu tại sao nhưng cảm thấy nhục vì người Việt Nam mình đi nước ngoài, nhất là các nước tư bản, là phải đi qua cửa ngõ sân bay Bangkok - thay vì chỉ cần qua của ngõ Tân Sơn Nhất của ta - rồi từ đó mới đáp may bay đi tiếp. Cho nên phải chịu bao cảnh ngang trái đau lòng.
Trở lại chuyến đi lao động ở Trung Đông. Một người bạn ngồi ở phi trường với tôi hôm đó kể rằng: người Việt Nam đi Trung đông để đào kênh qua sa mạc, lao động cực nhọc, thỉnh thoảng còn bị đánh đập, vì nước người ta là tư bản. Có anh xa vợ lâu ngày mà bên Trung Đông cái khoản phụ nữ là đặc biệt cấm kỵ nên khi về đến Thái Lan, bao nhiêu tiền dành dụm đem ra ăn chơi xả láng và mắc bệnh không dám về nước nữa.
Nhân chuyện này tôi nhớ có lần đi dự một hội nghị du lịch ở Tiệp Khắc, ở đó, tôi đã xem trên truyền hình một bộ phim tài liệu hình sự, diễn ra cảnh các thanh niên Việt Nam lao động hợp tác tại Tiệp Khắc thanh toán nhau bằng búa. Tôi chợt hiểu tại sao tôi đón mãi mà xe buýt không dừng, đến khi mang huy hiệu phái đoàn Nhật thì mới đón được xe. Cũng không lạ gì cảnh người Việt Nam ở Matxcơva không dám chào nhau bằng tiếng Việt vào thời điểm có một thanh niên Việt Nam giết một cảnh sát vì bị bắt quả tang nấu rượu lậu.
Còn đâu huyền thoại về người Việt Nam anh hùng? Khi tôi đến nước Pháp hào hoa, đi ăn ở nhà hàng với mấy anh bạn Việt kiều, mấy ông khách bàn bên cạnh thấy chúng tôi là người châu Á, hỏi: "Mày là người nước nào?" Tôi chưa kịp trả lời đã nghe người bạn Việt kiều: "Người Nhật". "A, ông khách ngoại quốc kêu lên - nước Nhật của ông giỏi lắm. Xin cụng ly chúc mừng ông!".
Một lần khác tôi được giới thiệu là người Phi Luật Tân, thì người ta nói: "Nước ông còn đỡ hơn Việt Nam". Ở Matxcơva tôi thử nói người Trung Quốc xem sao thì được câu trả lời: "Ông nên gửi hàng thêm. Hàng của nước ông tốt lắm. Còn hàng Việt Nam ở Nga thì quá tệ".
Đó chỉ là những câu nói vô tình vì họ không biết tôi là người Việt và chính vì vậy, những câu nói đó chứa đầy vị đắng của sự thật.
Lâu nay chúng ta cứ đóng cửa ca ngợi nhau mà không biết thế giới đang ngày càng vượt quá xa chúng ta. Có dịp đi bàn chuyện buôn bán làm ăn ở một nước Tây Âu tôi mới thấy hết cái lạc hậu của mình.
Ở một nước tư bản, cán bộ kinh doanh của ta khi ngồi vào bàn đàm phán còn hỏi: "Các ông huy động vốn, được cấp vốn bao nhiêu?". Mà không biết rằng họ là tư bản, làm gì có khái niệm "cấp" hay "huy động" như chúng ta. Một điều đáng buồn nữa là trong khi thế giới người ta đã quan niệm quan hệ là: "hai bên cùng có lợi" thì cán bộ ta cứ nghĩ chuyện "đề nghị tài trợ, giúp đỡ, nghĩa là cứ tính chuyện... xin - cho".