Chém trên FB chưa đaẽ sao chời, giờ topic nghiệp vụ cũng phang vào đây nữa sao. Thôi kệ, việc gì rồi cũng qua miễn sao viết bài không quá cứng nhắc: vừa vui vừa học tập, chia sẻ kinh nghiệm là OK.
Trò có post 1 văn bản trên GPE
quy định những trường hợp mua bán TSCD cần phải có hợp đồng và biên bản nghiệm thu thì tài sản đó mới được xem là hợp lệ. Cái này để tìm lại trên GPE sau đi nhé.
Hỏi: Khi mua tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên phục vụ sản xuất kinh doanh của Công ty như máy vi tính, máy photocopy, các máy móc thiết bị khác ... thì Công ty có được sử dụng hóa đơn bán hàng, biên bản bàn giao để đưa những thiết bị trên vào tài sản cố định của Công ty không? Hay bắt buộc phải có hợp đồng mua bán thì mới được chấp nhận là tài sản cố định?
Trả lời: Tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ thì mọi TSCĐ trong doanh nghiệp phải có bộ hồ sơ riêng (gồm biên bản giao nhận TSCĐ, hợp đồng, hoá đơn mua TSCĐ và các chứng từ, giấy tờ khác có liên quan).
Hỏi:Khi mua tài sản cố định (giá trị từ 10 triệu đồng trở lên), ngoài hóa đơn bán hàng, để được chấp nhận là tài sản cố định của doanh nghiệp, doanh nghiệp có bắt buộc phải có hợp đồng mua bán không?
Trả lời: Tại Điều 401 Bộ Luật Dân sự nước CHXHCNVN (có hiệu lực từ ngày 01/01/2006) thì trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân thủ các quy định đó.
Trường hợp Công ty mua tài sản cố định (không rõ cụ thể là gì) đề nghị Công ty nghiên cứu thêm.
Nhiều câu hỏi xung quanh việc mua bán có cần lập hợp đồng kinh tế không? Trò được nghe trong pháp luật dân sự hiện hành cho phép việc giao dịch mua bán không bắt buộc phải ký hợp đồng bằng văn bản nhưng không rõ điều khoản nào quy định. Không gì quý hơn bằng mắt thấy tai nghe, để trò tìm lại thông tin chính xác sẽ gửi lên sau vậy nhe.
Nhưng tại sao việc vận chuyển hàng hóa thì lại bắt buộc phải có hợp đồng kinh tế, nghĩ cũng lạ quá các Thầy/cô ạ.
Xem
Điều 401. Hình thức hợp đồng dân sự
1. Hợp đồng dân sự
có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật
không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Cùng nhau suy gẫm,
văn bản này đúng hay sai:
1) Về thuế GTGT:
- Căn cứ khoản 1c, mục I Thông tư số 108/TT-PC ngày 19/5/1990 của Trọng Tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn kí kết và thực hiện hợp đồng kinh tế:
“Hợp đồng được ký kết bằng văn bản hoặc bằng tài liệu giao dịch. Hợp đồng ký kết bằng văn bản tức là hai bên cùng ký hoặc một bên ký trước, bên khác ký sau nhưng cùng ký trên một văn bản. Hợp đồng ký kết bằng tài liệu giao dịch chỉ bao gồm những loại tài liệu như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn dặt hàng. (Các hình thức giao dịch khác như thư từ, điện thoại, giấy giới thiệu, giấy biên nhận, biên lai, hoá đơn, vé tàu xe , sổ tiết kiệm v.v... không được xem là tài liệu giao dịch để ký kết hợp đồng kinh tế, mà chỉ có ý nghĩa làm chứng cứ trong quan hệ hợp đồng kinh tế, đã được ký kết bằng văn bản hoặc bằng tài kiệu giao dịch, công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng).”
Giờ này còn Trọng tài kinh tế nữa ư.