- Tham gia
- 12/12/06
- Bài viết
- 3,661
- Được thích
- 18,158
Hóa đơn chứng từ trong quản lý thuế GTGT đối với các nghiệp vụ kinh doanh đặc thù đang được thực hiện tại các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH)
+ Ngày 21/01/2011, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 09/2011/TT-BTC hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm (KDBH)
+ Ngày 18/3/2011 Bộ Tài chính có ban hành Quyết định số 624/QĐ-BTC Về việc đính chính Thông tư số 09/2011/TT-BTC với nội dung sau:
Điều 1. Đính chính nội dung nêu tại Thông tư số 09/2011/TT-BTC ngày 21/01/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm như sau:
Tại điểm b, khoản 2, Điều 9 đã in là:
"Khi thu phí bảo hiểm, từng doanh nghiệp đồng bảo hiểm cấp hoá đơn GTGT cho khách hàng theo phần phí bảo hiểm nhận được và kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định. Trường hợp ủy quyền cho một doanh nghiệp thu hộ phí bảo hiểm hoặc chỉ có một doanh nghiệp đứng tên trong hợp đồng thì thực hiện như đối với trường hợp thu hộ phí bảo hiểm hướng dẫn tại tiết d, khoản 2 Điều 9 Thông tư này.
Khi mua hàng hoá, dịch vụ để bồi thường hoặc thanh toán các khoản chi khác liên quan đến hợp đồng đồng bảo hiểm, hoá đơn GTGT mang tên, địa chỉ, mã số thuế của doanh nghiệp nào thì doanh nghiệp đó thực hiện kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào và hạch toán chi phí theo quy định chung. Trường hợp doanh nghiệp đồng bảo hiểm ủy quyền cho doanh nghiệp đứng tên trên hợp đồng chi thì thực hiện như đối với trường hợp chi hộ hướng dẫn tại tiết d, khoản 2, Điều 9 Thông tư này".
Nay sửa thành:
"Khi thu phí bảo hiểm, từng doanh nghiệp đồng bảo hiểm cấp hoá đơn GTGT cho khách hàng theo phần phí bảo hiểm nhận được và kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định. Trường hợp ủy quyền cho một doanh nghiệp thu hộ phí bảo hiểm hoặc chỉ có một doanh nghiệp đứng tên trong hợp đồng thì thực hiện như đối với trường hợp thu hộ phí bảo hiểm hướng dẫn tại điểm c, khoản 2 Điều 9 Thông tư này.
Khi mua hàng hoá, dịch vụ để bồi thường hoặc thanh toán các khoản chi khác liên quan đến hợp đồng đồng bảo hiểm, hoá đơn GTGT mang tên, địa chỉ, mã số thuế của doanh nghiệp nào thì doanh nghiệp đó thực hiện kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào và hạch toán chi phí theo quy định chung. Trường hợp doanh nghiệp đồng bảo hiểm ủy quyền cho doanh nghiệp đứng tên trên hợp đồng chi thì thực hiện như đối với trường hợp chi hộ hướng dẫn tại điểm c, khoản 2, Điều 9 Thông tư này".
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ thời điểm Thông tư số 09/2011/TT-BTC có hiệu lực và là một bộ phận không tách rời của Thông tư số 09/2011/TT-BTC./.
Tạp chí Tài chính điện tử số 90 (tháng 12/2010) và số 91 (tháng 01/2011), trong đó có rất nhiều nội dung đã được đưa ra thảo luận cùng bạn đọc trên chuyên mục CHUYỆN CHỈ NHỮNG NGƯỜI TRONG NGHỀ MỚI HIỂU
Tạp chí Tài chính Điện tử số 92 ngày 15/2/2011, trong số này, tiếp tục trao đổi để làm rõ thêm những nội dung hướng dẫn về hóa đơn chứng từ trong quản lý thuế GTGT đối với các nghiệp vụ kinh doanh đặc thù đang được thực hiện tại các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH)
Xin trích lại nội dụng bài viết này:
1- Hóa đơn chứng từ đối với nghiệp vụ đồng bảo hiểm (ĐBH).
Trước hết cần làm rõ về nghiệp vụ “đồng bảo hiểm” đang được diễn ra trong thực tiễn hiện nay như thế nào? Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật về KDBH thì các hợp đồng kinh tế trong lĩnh vực bảo hiểm được gọi là Hợp đồng bảo hiểm (HĐBH), trong đó bắt buộc phải có các nội dung chủ yếu là: (i) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng; (ii) Đối tượng bảo hiểm; (iii) Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản; (iv) Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm; (v) Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; (vi) Thời hạn bảo hiểm; (vii) Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm; (viii) Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; (ix) Các quy định giải quyết tranh chấp; (x) Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng. Ngoài những nội dung này, hợp đồng bảo hiểm có thể còn có các nội dung khác do các bên thỏa thuận. Trong đời sống thực tế ngày càng xuất hiện nhiều hợp đồng bảo hiểm trong đó có sự tham gia của nhiều DNBH và thường được gọi là hợp đồng ĐBH. Một Bên mua bảo hiểm/yêu cầu bảo hiểm ký hợp đồng với nhiều DNBH cho một đối tượng được bảo hiểm hoặc người được thụ hưởng theo nguyên tắc số tiền phí bảo hiểm và trách nhiệm bảo hiểm được phân định cho từng DNBH. Như vậy, có thể thấy mối quan hệ trong ĐBH là mối quan hệ trực tiếp giữa các DNBH với nhau và giữa từng DNBH với khách hàng.
Hợp đồng ĐBH cũng rất đa dạng, mỗi hợp đồng có thể bảo hiểm cho mọi rủi ro của khách hàng nhưng cũng không ít trường hợp chỉ có một rủi ro, một đối tượng bảo hiểm thôi nhưng có nhiều DNBH tham gia, họ chia nhau quyền về mức thu phí bảo hiểm đồng thời với việc chia nhau nghĩa vụ, trách nhiệm tương ứng. Tuy nhiên, theo tiêu chí trách nhiệm và phương thức triển khai thì các hợp đồng ĐBH được phân thành 2 loại: (1) Hợp đồng xác định rõ trách nhiệm, mức phí của từng DN; và (2) Hợp đồng do một DN đứng tên (leading) được các DN ủy quyền cho chịu trách nhiệm về việc thu phí và giải quyết bồi thường, chi trả các khoản phí khác liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Đáp ứng yêu cầu của thực tế trong lĩnh vực KDBH, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính (Điều 9 Thông tư số 09/2011) đã bao quát đầy đủ và quy định rõ nội dung thể hiện trên hóa đơn, chứng từ đối với cả 2 loại hình ĐBH trong suốt quá trình thực hiện thu phí, xử lý bồi thường khi sự kiện bảo hiểm (không ai mong muốn) xảy ra , cụ thể như sau:
(a)- Trường hợp mà hợp đồng ĐBH đã xác định rõ tỷ lệ đồng bảo hiểm hoặc ghi rõ mức phí, mức trách nhiệm của từng DNBH tham gia thì hóa đơn, chứng từ thực hiện theo quy định chung, đó là: Khi thu phí bảo hiểm, từng DN với tư cách là 1 đơn vị ĐBH sẽ cấp hoá đơn GTGT cho khách hàng theo phần phí bảo hiểm gốc có thuế GTGT tương ứng với tỷ lệ ĐBH và thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định. Hóa đơn GTGT cũng thể hiện rõ mức tiền bảo hiểm theo giá chưa có thuế GTGT; thuế suất, tiền thuế GTGT; và tổng trị giá thanh tóan. Trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm phải xử lý bồi thường thì phần trách nhiệm bảo hiểm thuộc DN nào, DN đó sẽ tự chịu trách nhiệm. Chứng từ liên quan đến việc mua hàng hoá, dịch vụ để bồi thường hoặc thanh toán các khoản chi khác liên quan đến hợp đồng bảo hiểm sẽ thực hiện theo nguyên tắc: hoá đơn GTGT mang tên, địa chỉ, mã số thuế của DNBH nào (với tư cách người mua), thì DNBH đó sẽ thực hiện kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào và hạch toán chi phí theo quy định chung.
(b)- Với trường hợp ĐBH trong đó có một DNBH đứng tên (leading) và được các DNBH cùng tham gia hợp đồng uỷ quyền làm đầu mối thu phí và chịu trách nhiệm giải quyết bồi thường, chi trả các khoản phí liên quan đến HĐBH thì thực hiện theo hướng dẫn:
- Khi thu phí bảo hiểm theo hợp đồng, DNBH leading đứng tên xuất hoá đơn GTGT cho khách hàng, thực hiện kê khai tính thuế GTGT trên toàn bộ giá trị hợp đồng bảo hiểm theo quy định. Khi DN leading phân chia số tiền phí bảo hiểm theo tỷ lệ ĐBH cho các DN tham gia ĐBH (mức phí bảo hiểm không bao gồm thuế GTGT) thì các DNBH này sẽ xuất hoá đơn GTGT cho DN leading; trong đó ghi rõ hoá đơn ĐBH theo hợp đồng số,… ngày,…. tháng,… năm,… dòng thuế GTGT không ghi và gạch bỏ. Hoá đơn này là căn cứ để các doanh nghiệp ĐBH hạch toán doanh thu (chịu thuế TNDN) theo quy định, không phải tính thuế GTGT vì toàn bộ giá trị hợp đồng đã tính đủ thuế do DN leading kê khai.
- Khi DNBH leading thực hiện chi hộ cho các đơn vị ĐBH khoản chi phí phát sinh trong hợp đồng như chi bồi thường, hoa hồng bảo hiểm và các khoản chi khác liên quan đến hợp đồng thì DNBH leading đứng tên thực hiện kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các khoản chi này. Khi tính phân chia chi phí (phân bổ) cho từng DNBH tham gia theo tỷ lệ ĐBH, doanh nghiệp leading đứng tên cấp hoá đơn GTGT cho các DN này; trên hoá đơn ghi rõ chi bồi thường và các khoản chi khác liên quan đến hợp đồng ĐBH (số,… ngày,… tháng,… năm… của hợp đồng) do DNBH leading đứng tên thực hiện, dòng thuế GTGT không ghi và gạch bỏ. Hoá đơn này là căn cứ để các DN tham gia ĐBH hạch toán chi phí theo quy định, không tính kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào vì toàn bộ khoản chi đầu vào đã được khấu trừ tại DNBH leading như nêu trên.
2- Xuất hóa đơn đối với trường hợp thu hộ, chi hộ cho DNBH khác
Hoạt động thu hộ, chi hộ thường diễn ra trong quan hệ hợp tác giữa các DNBH độc lập hoặc giữa DNBH với các đại lý bảo hiểm, do đó cần phân biệt rõ ranh giới giữa hành vi thu tiền, hạch toán dòng tiền với quyền, nghĩa vụ của các bên trong HĐBH và được thực hiện theo trình tự sau:
- Khi thu hộ tiền phí bảo hiểm, DN hoặc đại lý là tổ chức thu hộ có trách nhiệm lập hoá đơn GTGT giao cho khách hàng, trên hoá đơn ghi rõ thu hộ Công ty bảo hiểm (tên, địa chỉ, mã số thuế của công ty) theo Hợp đồng bảo hiểm (số, ngày, tháng, năm của hợp đồng). DN hoặc đại lý thu hộ không hạch toán doanh thu mà hạch toán khoản thu hộ nhưng phải kê khai, nộp thuế GTGT đối với khoản thu này.
- Đối với DNBH nhờ thu hộ: Khi nhận tiền từ DN thu hộ thì lập hoá đơn GTGT giao cho DN thu hộ, trên hoá đơn ghi rõ nhận tiền phí bảo hiểm do Công ty bảo hiểm hoặc đại lý thu hộ (tên, địa chỉ, mã số thuế của công ty) theo hợp đồng bảo hiểm (số, ngày, tháng, năm của hợp đồng); số thuế GTGT được ghi trên hoá đơn bằng đúng số thuế GTGT mà DN thu hộ đã thu của khách hàng. Hoá đơn này làm căn cứ để DN thu hộ khấu trừ thuế GTGT đầu vào khi tính thuế GTGT phải nộp, đồng thời là căn cứ để DNBH nhờ thu hộ hạch toán doanh thu, kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định.
- Khi chi hộ DNBH tiền mua hàng hoá, dịch vụ để bồi thường cho khách hàng, DN hoặc đại lý chi hộ yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hoá, dịch vụ xuất hoá đơn bán hàng theo tên, địa chỉ, mã số thuế của DNBH nhờ chi hộ; hoá đơn này được chuyển cho DNBH nhờ chi hộ để DN này thực hiện kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào (nếu có) và hạch toán chi phí theo quy định.
3- Xuất hóa đơn đối với trường hợp thu hộ, chi hộ giữa các DN trực thuộc một DNBH hoặc giữa DN hạch toán phụ thuộc với trụ sở chính của DNBH
Việc xuất hoá đơn GTGT trong quan hệ nhờ thu/nhờ chi hộ giữa các DN trực thuộc một DNBH hạch toán độc lập, hoặc quan hệ nhờ thu/chi hộ giữa DN hạch toán phụ thuộc với trụ sở chính của DNBH cũng bảo đảm nguyên tắc không tính trùng lắp thuế GTGT, tiện lợi trong hạch toán, minh bạch trong giám sát như trường hợp thu/chi hộ nêu tại điểm 1 và điểm 2 trên đây nhưng được hướng dẫn cụ thể hơn như sau:
- Khi thu hộ tiền phí bảo hiểm, DN thu hộ thực hiện cấp hoá đơn GTGT cho khách hàng và kê khai, nộp thuế GTGT đối với phần doanh thu thu hộ, đồng thời thông báo thu hộ cho DN nhờ thu hộ. Căn cứ vào thông báo này, DN nhờ thu hộ hạch toán doanh thu (không có thuế GTGT), không phải phát hành hoá đơn và không kê khai, nộp thuế đối với phần doanh thu nhờ thu hộ.
- Trường hợp DN nhờ thu hộ không yêu cầu DN thu hộ cấp hoá đơn GTGT cho khách hàng thì DN thu hộ chỉ hạch toán nghiệp vụ thu hộ tiền và không kê khai, nộp thuế GTGT đối với số tiền thu hộ này. Căn cứ vào thông báo thu hộ, DN nhờ thu hộ sẽ cấp hoá đơn GTGT cho khách hàng và thực hiện kê khai, nộp thuế đối với phần doanh thu nhờ thu hộ (số tiền phí nhờ thu hộ).
- Khi thực hiện nghiệp vụ chi hộ, hoá đơn GTGT mang tên, mã số thuế của DN nào thì DN đó thực hiện kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, đồng thời thông báo chi hộ cho DN nhờ chi hộ để DN này hạch toán chi phí.
4- Hóa đơn đối với trường hợp hoàn trả phí bảo hiểm và giảm hoa hồng môi giới bảo hiểm
Hoàn trả phí bảo hiểm thường xảy ra trong những trường hợp thay đổi yêu cầu bảo hiểm về phạm vi, mức trách nhiệm so với hợp đồng đã ký kết, cũng có những trường hợp người được bảo hiểm làm tốt công tác quản trị, ngăn chặn từ xa, giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro,… nên rút lại một phần hoặc toàn bộ yêu cầu bảo hiểm. Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp xảy ra về trục lợi bảo hiểm thông qua việc rút lại yêu cầu bảo hiểm, đòi hoàn trả phí bảo hiểm. Do đó, các trường hợp hoàn trả phí bảo hiểm và gắn liền với nó là giảm mức hoa hồng môi giới bảo hiểm cần phải được kiểm soát kỹ càng và hoá đơn là một trong những công cụ hữu hiệu.
- Với trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm là tổ chức kinh doanh nay có yêu cầu hoàn trả một phần hoặc toàn bộ tiền phí bảo hiểm đã đóng thì DNBH yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm lập hoá đơn GTGT, trên hoá đơn ghi rõ số tiền phí bảo hiểm do DNBH hoàn trả, tiền thuế GTGT, lý do hoàn trả phí bảo hiểm (tương tự như hoá đơn GTGT xuất trả lại hàng đã mua). Hoá đơn này sẽ là căn cứ để DNBH điều chỉnh giảm doanh thu bán bảo hiểm, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu ra và tổ chức tham gia bảo hiểm điều chỉnh giảm chi phí mua bảo hiểm, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã kê khai khấu trừ.
- Trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm là cá nhân hoặc tổ chức không kinh doanh, không có hoá đơn GTGT thì DNBH nhất thiết phải lập biên bản hoặc thoả thuận bằng văn bản trước khi hoàn trả tiền phí bảo hiểm. Trong văn bản này, DNBH và khách hàng tham gia bảo hiểm phải ghi rõ số tiền phí bảo hiểm được hoàn trả (không bao gồm thuế GTGT), số tiền thuế GTGT theo hoá đơn thu phí bảo hiểm mà DNBH đã xuất trước đây (số ký hiệu, ngày, tháng của hoá đơn), lý do hoàn trả phí bảo hiểm. Biên bản này được lưu giữ cùng với hoá đơn thu phí bảo hiểm vừa thu hồi (bản gốc) để DNBH làm căn cứ điều chỉnh kê khai doanh thu, thuế GTGT. Trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm không trả lại hoá đơn thu phí bảo hiểm (bản gốc) thì DNBH căn cứ vào liên 1 của tờ hoá đơn lưu tại DN và biên bản hoặc văn bản thoả thuận để thực hiện hoàn trả số tiền phí bảo hiểm theo mức giá/phí không có thuế GTGT. Đối với trường hợp giảm hoa hồng môi giới bảo hiểm thì thực hiện theo hướng dẫn tại các văn bản pháp luật về môi giới bảo hiểm.
Còn tiếp