Cách hạch toán kế toán xây dựng cơ bản

Liên hệ QC

minhhue

Thành viên mới
Tham gia
17/9/07
Bài viết
1
Được thích
10
Các bác ơi cty em đang trong quá trình XDCB, những hợp đồng về nhân công, xây dựng nhà xưởng mà mình cho ứng trước thì hạch toán vào tài khoản nào để theo dõi. rất mong các bác giúp em
cảm ơn các bác
 
minhhue đã viết:
Các bác ơi cty em đang trong quá trình XDCB, những hợp đồng về nhân công, xây dựng nhà xưởng mà mình cho ứng trước thì hạch toán vào tài khoản nào để theo dõi. rất mong các bác giúp em
cảm ơn các bác

Nếu mình chủ đầu tư thì hạch tóan vào TK 241 xây dựng cơ bản.
Nếu là đvị thi công thì hạch toan TK 142 hay TK 242 tùy theo thời gian thi công
 
hach toan tai cong ty hoat dong ve xay dung thi dung nhung tai khoan nao a mong cac bac chi giup em nhanh voi a em cam on
 
hach toan tai cong ty hoat dong ve xay dung thi dung nhung tai khoan nao a mong cac bac chi giup em nhanh voi a em cam on

Nếu mình là Nhà thầu :
621+622++623+627->154->632 theo từng công trình
111,112,331,152->621 (chi phí NVL trực tiếp dùng XD)
111,112->334->622 (lương công nhân XD)
111,112,331->627 (chi phí quản lý trong XD như điện , nước, bảo hiểm, thuê VP...)
111,112,331,214->623 (Chi phí máy thi công)
Xuất hóa đơn cho chủ đầu tư khi nhận được tạm ứng : N131/C3387,333 - N111,112/C131
Khi hoàn thành công trình : N3387/C511 - N632/C154
 
Lần chỉnh sửa cuối:
toi muon lap cong thuc tinh gia xuat kho theo phuong phap FIFO, thi phai lam sao.
ai biet giup toi voi. cam on nhieu
 
Cty mình cũng làm trong lĩnh vực xây dựng và bán VLXD.
Rất muốn làm quen với các bạn làm trong lĩnh vực này nhé!
Mình làm việc ở TP.HCM Nickname: línhnhat66
Mail : línhnhat66@yahoo.com
 
Xin anh chị vui lòng giup em !
Hiện tại công ty em đang xây dựng công trình nhà ở năm 2008 đã hoàn tất, hợp đồng được ký với danh nghĩa công ty khác, nhưng công ty ấy không xuất hóa đơn trong năm 2008, bây giờ bên chủ nhà làm thu tục hoàn công yêu cầu bên em xuất một hóa đơn theo hợp đồng để hoàn công, bây giờ tháng 04/2009 rôi, e lam sao đây?, có làm lại hợp đồng mới dược ko? ( hợp đồng kia đã dăng ký rồi)
 
Quản lý, sử dụng và hạch toán TSCĐ trong DN xây dựng.

Quản lý, sử dụng và hạch toán TSCĐ trong DN xây dựng.

kt_nha_nuoc_ra_quan.jpg
| Trong tổ chức công tác kế toán của DNXD, phần hành kế toán tài sản cố định (TSCĐ), phục vụ cho việc ra các quyết định liên quan đến quản lý, sử dụng TSCĐ. Việc đánh giá thực trạng hạch toán và quản lý TSCĐ trong các DNXD là một việc làm có ý nghĩa quan trọng nhằm tìm ra các điểm mạnh và phân tích những tồn tại, phục vụ cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý và hạch toán TSCĐ nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong DNXD.

Những kết quả đạt được

Có thể nói, các DNXD đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo chế độ kế toán về TSCĐ. Chính điều này đã tác động tích cực tới hiệu năng quản lý kinh doanh, quản lý tài sản và đóng góp quan trọng vào việc nâng cao vị thế, sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của DNXD. Cụ thể là:

Các DNXD đã vận dụng đầy đủ hệ thống chứng từ cho quản lý và hạch toán TSCĐ, từ việc đầu tư, mua sắm, điều chuyển, cấp vốn, thuê, cho thuê, thanh lý, nhượng bán, khấu hao đến sửa chữa TSCĐ. Việc sử dụng tương đối đầy đủ và linh hoạt hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho phần hành kế toán TSCĐ, các tài khoản được sử dụng, bao gồm cả tài khoản tổng hợp và tài khoản chi tiết, từ kết cấu, cách ghi chép đến mối quan hệ giữa các tài khoản đã góp phần xử lý và cung cấp thông tin về tình hình hiện có và biến động của toàn bộ TSCĐ cũng như của từng loại TSCĐ trên các chỉ tiêu nguyên giá, giá trị hao mồn và giá trị còn lại (GTCL), từ đó làm cơ sở cho việc ra các quyết định của quản lý liên quan đến đầu tư, điều chuyển, thanh lý, nhượng bán và sửa chữa TSCĐ.

Các DN đã áp dụng hình thức kế toán tương đối hợp lý với quy mô hoạt động, đặc điểm tổ chức quản lý, nhu cầu thông tin và khả năng, điều kiện cơ sở vật chất của DNXD. Hình thức kế toán Nhật ký chung hoặc Chứng từ - Ghi sổ đã tạo điều kiện thuận lợi cho DNXD trong việc ứng dụng công nghệ thôn tin vào công tác kế toán và vạn dụng linh hoạt các mẫu sổ kế toán trong điều kiện kế toán máy. Việc mở và ghi đầy đủ số liệu về TSCĐ trên Thẻ TSCĐ, Sổ TSCĐ và Sổ theo dõi TSCĐ tại đơn vị sử dụng đã góp phần cung cấp thông tin về quá trình quản lý và sử dụng của từng TSCĐ, từng loại TSCĐ, bao gồm nguyên giá, tình hình trích khấu hao, số khấu hao luỹ kế tính đến thời điểm giảm TSCĐ, lý do giảm TSCĐ, đồng thời tăng cường thực hiện trách nhiệm vật chất đối với các cá nhân, bộ phận liên quan trong việc quản lý và sử dụng TSCĐ của DNXD.

Việc áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng theo nguyên tắc tròn tháng trong DNXD đơn giản, dễ làm, tạo điều kiện thuận lợi cho quaảnlý trong việc theo dõi và kiểm soát các chi phí SXKD khác vì chi phí khấu hao đã làm một con số ổn định. Việc phẩn bổ chi phí khấu hao TSCĐ cho các đối tượng chịu chi phí trong trường hợp TSCĐ được sử dụng cho nhiều công trình theo số giờ hoặc số ca máy hoạt động là phù hợp, sát thực với mức độ sử dụng của từng công trình trên cơ sở số giờ máy, số ca máy thống kê.

Việc hạch toán các trường hợp tăng, giảm, thuê, cho thuê, khấu hao và sửa chữa TSCĐ trong DNXD về cơ bản được thực hiện như quy định của Chế độ kế toán. Đặc biệt, một số DNXD đã vận dụng hết sức sáng tạo tài khoản và phương pháp hạch toán trường hợp cho thuê hoạt động TSCĐ, đó là mở chi tiết các TK 623, 154, 632, 511 để theo dõi các chi phí và doanh thu phát sinh trong quá trình cho thuê.

Hệ thống BCTC nói chung, báo cáo về TSCĐ nói riêng trong các DNXD tương đối đầy đủ, kịp thời và chính xác. Các báo cáo tăng TSCĐ, báo cáo kết quả kiểm kê TSCĐ là căn cứ quan trọng trong việc kiểm tra, đối chiếu số liệu với sổ kế toán và BCTC. Việc ghi chú đầy đủ, chính xác thông tin bổ sung cho các khoản mục trình bày trong bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh, trong đó có các thông tin cụ thể về tăng, giảm TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, TSCĐ thuê tài chính; GTCL của TSCĐHH dùng để thế chấp, cầm cố cho các khoản vay; Nguyên giá TSCĐ đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng; Chi phí xây dựng cơ bản (XDCB) dở dang và Chi phí khấu hao TSCĐ đã cung cấp thông tin toàn diện và chi tiết cho quản lý về tình hình hiện có và biến động của từng loại TSCĐ, giải thích rõ ràng cho các khoản mục được trình bày trong BCTC của DNXD.

Việc quản lý TSCĐ trong các DNXD được thực hiện tương đối bài bản và chặt chẽ. Quy trình thủ tục của các trường hợp mua sắm, XDCB, thuê, cho thuê, thanh lý, nhượng bán, sửa chữa TSCĐ trong DNXD là hợp lý, các bước công việc diễn ra theo một trình tự xác định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát của quản lý. Hiệu quả sử dụng TSCĐ trong DNXD tương đối khả quan, có chiều hướng tăng dần qua các năm. Sức sản xuất và sức sinh lời của TSCĐ tăng, trong khi suất hao phí của TSCĐ giảm. Nguồn vốn đầu tư TSCĐ trong các DNXD chủ yếu là nguồn tài trợ vay, nợ bên ngoài. Tuy nhiên, suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (CSH) trong các DNXD là hợp lý trong tương quan với mặt bằng tỷ lệ lãi suất cho vay của thị trường.

Những nỗ lực của DNXD trong việc hạch toán và quản lý TSCĐ đã đóng góp nhất định vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và hiệu quả kinh doanh, vị thế của các DNXD nói riêng.

Những hạn chế cần khắc phục

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quản lý và hạch toán TSCĐ, các DNXD vẫn còn một số hạn chế nhất định cần khắc phục và hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu năng quản lý và hiệu quả kinh doanh.

Thứ nhất, các DNXD chưa thực hiện đánh số hiệu cho TSCĐ, gây khó khăn nhất định cho việc theo dõi, kiểm kê và quản lý TSCĐ trong phạm vi toàn DNXD cũng như theo từng bộ phận, đơn vị sử dụng.

Thứ hai, các hình thức đầu tư TSCĐ trong DNXD còn đơn giản, phần lớn chỉ bao gồm tăng do mua, thuê và do XDCB, chưa khai thác các hình thức khác như mua trả góp, tự sản xuất hay trao đổi TSCĐ. Trong điều kiện khả năng tài chính còn hạn hẹp, nhu cầu về số lượng, chủng loại và chất lượng của TSCĐ trong DNXD ngày càng cao, cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư TSCĐ sao cho phù hợp với yêu cầu sử dụng, khả năng tài chính và tính hiệu quả kinh tế.

Thứ ba, việc sử dụng TK kế toán trong DNXD còn nhiều bất cập. Nhiều DN không mở TK chi tiết trong các TK tổng hợp 211, 213, 214 để theo dõi số hiện có và tình hình biến động nguyên giá, giá trị hao mòn của từng loại TSCĐ, hạn chế việc cung cấp thông tin về từng loại TSCĐ cho quản lý, khi cần thông tin kế toán phải kiểm tra lại chứng từ và Sổ TSCĐ, đồng thời không có căn cứ để đối chiếu số liệu với thuyết minh BCTC. Phần lớn DN không mở TK 001 để phản ánh tình hình nhận và trả giá trị TSCĐ thuê ngoài theo phương thức thuê hoạt động với bên cho thuê mà chỉ theo dõi trên hợp đồng thuê, đồng nghĩa với việc chưa phản ánh đầy đủ các mối quan hệ kinh tế- pháp lý phát sinh trong quá trình hoạt động của DNXD. Một DNXD không mở TK 623 (trong trường hợp áp dụng Chế độ Kế toán DN) hoặc không mở chi tiết TK 154 (trong trường hợp áp dụng Chế độ kế toán DN nhỏ và vừa) để tập hợp và kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công ảnh hưởng đến tính chính xác của cơ cấu chi phí sản xuất trong giá thành công trình xây lắp.

Thứ tư, các DNXD mới quan tâm đến việc lập Báo cáo tăng TSCĐ mà không lập Báo cáo giảm TSCĐ. Việc không lập báo cáo này một mắt không cung cấp được thông tin tổng hợp cho nhà quản lý về tình hình biến động giảm TSCĐ, một mặt gây khó khăn cho việc lập Báo cáo TSCĐ và ghi chú bổ sung cho tăng, giảm khoản mục TSCĐ trong Thuyết minh BCTC của DNXD.

Thứ năm, việc hạch toán khấu hao TSCĐ trong thời gian cho thuê hoạt động vào chi phí tài chính, hạch toán tiền thu từ cho thuê vào thu nhập khác của một số DNXD là không hợp lý vì hoạt động cho thuê TSCĐ là một hoạt động SXKD thường xuyên của DNXD. Ngay cả khi khấu hao TSCĐ cho thuê và chi phí phát sinh trong quá trình cho thuê được hạch toán vào chi phí sản xuất chung và được phân bổ cho các công trình cũng là điều bất hợp lý vì TSCĐ cho thuê không phát huy tác dụng trong việc thi công các công trình. Việc làm này hoặc phản ánh không chính xác nội dung, quy mô chi phí, doanh thu hoặc làm sai lệch thông tin về giá thành công trình xây dựng của DNXD.

Thứ sáu, các DNXD áp dụng duy nhất phương pháp tính khấu hao truyền thống là phương pháp đường thẳng và tính toán theo nguyên tắc tròn tháng cho tất cả các loại TSCĐ. Việc làm này tuy tạo ra sự đơn giản cho quản lý và hạch toán nhưng không đánh giá sát hợp mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ, đặc biệt là những TSCĐ có mức độ hao mòn vô hình tương đối lớn. Mặt khác, khi TSCĐ tăng hoặc giảm vào những ngày đầu tháng mà tháng sau mới được tính hoặc thôi tính khấu hao thì sai lệch trong kết quả tính khấu hao TSCĐ có thể là một con số không nhỏ.

Thứ bảy, các DNXD hiện nay đang sử dụng một lượng lớn TSCĐ đã khấu hao hết giá trị. Điều này có thể là cần thiết khi năng lực sản xuất của TSCĐ vẫn đảm bảo, DNXD còn gặp khó khăn về nguồn lực tài chính trong việc đầu tư, đổi mới, nâng cấp TSCĐ. Tuy nhiên, nếu duy trì sử dụng một lượng lớn TSCĐ đã khấu hao hết giá trị có thể ảnh hưởng đến năng lực, trình độ thi công, và khả năng đấu thầu của DNXD.

Còn tiếp :

 
Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp

Tiếp theo bài : Quản lý, sử dụng và hạch toán TSCĐ trong DN xây dựng.

Thứ tám, bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ trong các DNXD hiện nay được tính trực tiếp trên cơ sở từng TSCĐ gắn với từng công trình hoặc bộ phận quản lý cụ thể mà không thể hiện số khấu hao trích kỳ trước, số khấu hao tăng và giảm trong kỳ, không cho phép đánh giá sự biến động chi phí khấu hao TSCĐ do ảnh hưởng của các trường hợp tăng, giảm TSCĐ ngay trên bảng tính khấu hao kỳ này. Mặt khác, khấu hao TSCĐ trong những ngày không sử dụng được hạch toán vào chi phí quản lý DN là không hợp lý bởi lẽ những TSCĐ này được sử dụng cho mục đích thi công công trình xây lắp chứ không phục vụ quản lý DN. Việc ghi tăng chi phí quản lý DN trong trường hợp này là không đúng với mục đích sử dụng TSCĐ và phản ánh sai bản chất, quy mô của chi phí quản lý DN.

Thứ chín, hầu hết các DNXD chưa xây dựng quy chế tài chính nội bộ và quy chế quản lý, sử dụng TSCĐ áp dụng trong DNXD. Quy chế tài chính nội bộ quy định nội dung, trình tự ghi nhận doanh thu, chi phí, thẩm quyền phê duyệt đầu tư, điều chuyển, thanh lý, nhượng bán tài sản nói chung, TSCĐ nói riêng, nhận vốn góp, phân chia lợi nhuận, xử lý lỗ, mục đích sử dụng các quỹ, chế độ kế toán, kiểm toán…Quy trình quản lý, sử dụng TSCĐ đề cập cụ thể đến các vấn đề tổ chức, kinh tế, kỹ thuật trong việc đầu tư, điều chuyển, sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa, thanh lý, nhượng bán TSCĐ. Việc ban hành và áp dụng quy chế tài chính nội bộ, quy chế quản lý, sử dụng TSCĐ sẽ tạo ra sự thống nhất, minh bạch và công khai trong quá trình thực hiện, làm tăng tính hiệu năng của công tác quản lý, và tính hiệu quả trong quản lý, sử dụng TSCĐ.

Thứ mười, các DNXD hiện nay chưa tổ chức kế toán quản trị TSCĐ và chưa tiến hành phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng TSCĐ nói riêng. Tất cả các phần hành kế toán tại phòng kế toán của DNXD, trong đó có phần hành TSCĐ, đều thực hiện chức năng kế toán tài chính. Việc theo dõi, quản lý về số lượng, tình trạng kỹ thuật và điều động TSCĐ thuộc về phòng cơ giới hoặc phòng kỹ thuật. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng TSCĐ không được tiến hành thường xuyên, không tổ chức bộ máy phân tích và xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích và xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích, đánh giá. Các DNXD chỉ tiến hành tính toán một số chỉ tiêu phục vụ cho việc đánh giá khái quát tình hình tài chính và kết quả kinh doanh khi lập Thuyết minh BCTC vào cuối mỗi năm.

Những hạn chế trên đây xuất phát từ những nguyên nhân khách quan là hoạt động SXKD của DNXD diễn ra ngoài trời, chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên, TSCĐ và các điều kiện sản xuất thường xuyên phải di chuyển, nhu cầu về số lượng, chủng loại TSCĐ hiện đại ngày một tăng trong khi khối lựơng công việc không đều giữa các thời điểm trong năm. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước nói chung, chính sách tài chính, kế toán nói riêng thường xuyên thay đổi, nhiều điểm không thống nhất đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức thực hiện của các DN, DNXD. Bên cạnh đó, có nguyên nhân chủ quan là hạn chế về số lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán trong các DNXD so với khối lượng công việc và yêu cầu chất lượng thông tin ngày càng cao. Mặt khác, công tác tài chính, kế toán chưa được các DNXD quan tâm đúng mức.

Tất cả những hạn chế, tồn tại này chỉ được khắc phục triệt để thì công tác quản lý kinh doanh nói chung, quản lý và hoặc toán TSCĐ nói riêng của DNXD mới thực sự có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trên thương trường.

THS. Trần Văn Thuận-ĐH KTQD (Tạp chí Kế toán)

--------
Nguồn : Tạp chí kế toán

Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp

1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.

Đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp là phạm vi giới hạn chi phí sản xuất xây lắp cần được tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành.

Để xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp trong các doanh nghiệp, trước hết phải căn cứ vào các yếu tố tính chất sản xuất và qui trình công nghệ sản xuất giản, đặc điểm tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý, đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp.

Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các loại chi phí được tập hợp trong một thời gian nhất định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Giới hạn tập hợp chi phí sản xuất có thể là nơi gây ra chi phí và đối tượng chịu chi phí.

Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là công trình, hạng mục công trình, hoặc có thể là đơn đặt hàng, bộ phận thi công hay từng giai đoạn công việc. Tuy nhiên trên thực tế các đơn vị xây lắp thường hạch toán chi phí theo công trình, hạng mục công trình.

Hạch toán chi phí sản xuất xây lắp theo đúng đối tượng đã được qui định hợp lý có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất và phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp thời.

2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.

Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phương pháp sử dụng để tập hợp và phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giới hạn của mỗi đối tượng kế toán chi phí. Trong các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu dùng các phương pháp tập hợp chi phí sau:

- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công trình: chi phí sản xuất liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó.

- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng: các chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến đơn đặt hàng nào sẽ được tập hợp và phân bổ cho đơn đặt hàng đó. Khi đơn đặt hàng hoàn thành, tổng số chi phí phát sinh theo đơn đặt hàng kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.

- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn vị hoặc khu vực thi công: phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện khoán. Đối tượng hạch toán chi phí là các bộ phận, đơn vị thi công như tổ đội sản xuất hay các khu vực thi công. Trong từng đơn vị thi công lại được tập hợp theo từng đối tượng tập hợp chi phí như hạng mục công trình.

Trong các doanh nghiệp xây lắp, mỗi đối tượng có thể áp dụng một hoặc một số phương pháp hạch toán trên. Nhưng trên thực tế có một số yếu tố chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng, do đó phải tiến hành phân bổ các khoản chi phí này một cách chính xác và hợp lý cho từng đối tượng.

Vũ Thị Dịu
 
Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp

Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp​

Nguồn : Tạp chí kế toán

060629090430_hoang.jpg
| Trong tổng chi phí sản phẩm xây lắp thì chi phí nguyên vật liệu chính chiếm một tỷ trọng lớn. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí của những loại nguyên vật liệu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định một cách tách biệt rõ ràng cụ thể cho từng sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành nên thực thể sản phẩm xây lắp. Chi phí nguyên vật liệu được tính theo giá thực tế khi xuất dùng, còn có cả chi phí thu mua, vận chuyển từ nơi mua về nơi nhập kho hoặc xuất thẳng đến chân công trình.

Trong xây dựng cơ bản cũng như các ngành khác, vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào thì phải được tính trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó dựa trên cơ sở chứng từ gốc theo giá thực tế của vật liệu và số lượng thực tế vật liệu đã sử dụng. Cuối kỳ hạch toán hoặc khi công trình đã hoàn thành, tiến hành kiểm kê số vật liệu còn lại tại công trình để giảm trừ chi phí vật liệu đã tính cho từng hạng mục công trình, công trình. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức kế toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các đối tượng liên quan.

Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao theo hệ số, trọng lượng, số lượng sản phẩm...

Công thức phân bổ như sau:

Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng = Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng x (nhân) (Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ/(chia) Tổng tiêu thức lựa chọn để phân bổ của các đối tượng)

*Chứng từ sử dụng:

- Hoá đơn bán hàng, hóa đơn giá trị gia tăng

- Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho.

- Giấy đề nghị tạm ứng, phiếu chi.

- Hoá đơn mua bán…

Vật liệu mua về có thể nhập kho hoặc có thể xuất thẳng cho công trình. Trường hợp các đơn vị thi công tự đi mua vật tư thì chứng từ gốc là hoá đơn kiêm phiếu xuất kho của người bán. Phiếu xuất kho và chứng từ liên quan như hoá đơn vận chuyển tạo thành bộ chứng từ được chuyển về phòng kế toán làm số liệu hạch toán.

*TK sử dụng: Tài khoản 621 dùng để tập hợp chi phí nguyên vật liệu dùng cho sản xuất phát sinh trong kỳ, cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Kết cấu TK 621 như sau:

Bên Nợ: Trị giá gốc thực tế của nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm xây lắp.

Bên Có: Trị giá nguyên liệu vật liệu sử dụng không hết nhập kho, Kết chuyển chi phí NVL vào TK 154- Chi phí SXKD dở dang

TK 621 không có số dư cuối kỳ. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình.

- Căn cứ vào đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và giá trị vật liệu sử dụng, kế toán ghi:

Nợ TK 621: Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp.

Nợ TK 133: VAT được khấu trừ (nếu có).

Có TK 152: nguyên vật liệu.

Có TK 111, 112, 331…

- Cuối kỳ hạch toán và hoàn thành hạng mục công trình kế toán và thủ kho kiểm kê số vật liệu còn lại chưa dùng để ghi giảm trừ chi phí vật liệu đã tính cho từng đối tượng hạch toán chi phí.

- Nếu nhập lại kho nguyên vật liệu, giá trị vật liệu còn có thể chưa sử dụng hết, giá trị phế liệu thu hồi kế toán ghi:

Nợ TK 152: Vật liệu, nguyên liệu

Có TK 621: Chi phí NVL trực tiếp

- Cuối kỳ căn cứ vào giá trị kết chuyển hoặc phân bổ nguyên vật liệu cho từng hạng mục công trình, kế toán ghi:

Nợ TK 154: Chi phí SXKD dở dang

Có TK 621: Chi phí NVL trực tiếp

Thông qua kết quả hạch toán chi phí vật liệu tiêu hao thực tế theo từng nơi phát sinh, cho từng đôí tượng chịu chi phí thường xuyên kiểm tra đối chứng với định mức và dự toán để phát hiện kịp thời những lãng phí mất mát hoặc khả năng tiết kiệm vật liệu, xác định nguyên nhân, người chịu trách nhiệm để xử lý hoặc khen thưởng kịp thời.

Ta có thể thấy quá trình hạch toán qua sơ đồ sau:


SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN CHI PHÍ NGUYÊN VẬT LIỆU TRỰC TIẾP

cfxl.jpg

Vũ Thị Dịu
 
Vai trò và nhiệm vụ của kế toán CPSX và tính GTSP trong các doanh nghiệp xây lắp

Vai trò và nhiệm vụ của kế toán CPSX và tính GTSP trong các doanh nghiệp xây lắp
Nguồn : Tạp chí kế toán

1. Vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp

Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chính xác, hợp lý và tính đúng, tính đủ giá thành công trình xây lắp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành xây dựng, trong việc kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung và ở các tổ đội xây dựng nói riêng. Với chức năng là ghi chép, tính toán, phản ánh và giám đốc thường xuyên liên tục sự biến động của vật tư, tài sản, tiền vốn, kế toán sử dụng thước đo hiện vật và thước đo giá trị để quản lý chi phí. Thông qua số liệu do kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành, người quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công trình của quá trình sản xuất kinh doanh. Qua đó, nhà quản trị có thể phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường.

Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần giá thành thì giá thành lại chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Do vậy, tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp để xác định nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành cũng như lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm hoàn thành là yêu cầu rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng.

Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là tiền đề để xác định kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng lãi giả, lỗ thật như một số năm trước đây. Khi nền kinh tế đang trong thời kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh, vật tư, tiền vốn do cấp trên cấp, giá thành là giá thành kế hoạch định sẵn. Vì vậy, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chỉ mang tính hình thức. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được chủ động hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương hướng riêng và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Để có thể cạnh tranh được trên thị trường, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp còn phải thực hiện đúng theo những quy luật khách quan.Như vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là phần không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp xây lắp khi thực hiện chế độ kế toán, hơn nữa là nó có ý nghĩa to lớn và chi phối chất lượng công tác kế toán trong toàn doanh nghiệp.

2. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp

Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây dựng nên việc quản lý về đầu tư xây dựng rất khó khăn phức tạp, trong đó tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp. Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng cơ chế đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng. Vì vậy, để trúng thầu, được nhận thầu thi công thì doanh nghiệp phải xây dựng được giá thầu hợp lý, dựa trên cơ sở đã định mức đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, trên cơ sở giá thị trường và khả năng của bản thân doanh nghiệp. Mặt khác, phải đảm bảo kinh doanh có lãi. Để thực hiện các yêu cầu đòi hỏi trên thì cần phải tăng cường công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí giá thành nói riêng, trong đó trọng tâm là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành đảm bảo phát huy tối đa tác dụng của công cụ kế toán đối với quản lý sản xuất.

Trước yêu cầu đó, nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là:

- Phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh.

- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công và các chi phí dự toán khác, phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng…trong sản xuất để đề xuất những biện pháp ngăn chặn kịp thời.

- Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp, các sản phẩm lao vụ hoàn thành của doanh nghiệp.

- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình, hạng mục công trình từng loại sản phẩm lao vụ, vạch ra khả năng và các biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý và có hiệu quả.

- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên tắc quy định.

- Đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ phận thi công tổ đội sản xuất…trong từng thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo cáo về chi phí sản xuất, tính giá thành công trình xây lắp, cung cấp chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
Trần Thêm
 
Đặc điểm sản xuất xây lắp có ảnh hưởng đến kế toán CPSX và tính GTSP trong các DNXL

Đặc điểm sản xuất xây lắp có ảnh hưởng đến kế toán CPSX và tính GTSP trong các doanh nghiệp xây lắp

Nguồn : Tạp chí kế toán

Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân, của quỹ tích luỹ cùng với vốn đầu tư của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.

So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.

Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài...Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.

Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ.

Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng...

Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ lụt...Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán.

Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây lắp.

Thúy Phượng
 
Giá thành sản phẩm xây lắp

Giá thành sản phẩm xây lắp

Nguồn : Tạp chí kế toán

Giá thành sản phẩm xây lắpGiá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu vào mới chỉ là đáp ứng yêu cầu của tái sản xuất giản đơn.

Giá thành sản phẩm xây lắp

Khái niệm

Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành.

Giá thành sản xuất sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi ra cho sản xuất. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.

Chỉ tiêu giá thành nếu được xác định một cách chính xác, trung thực có thể giúp cho các doanh nghiệp cũng như Nhà nước có cơ sở để xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra những biện pháp, đường lối thích hợp cho từng giai đoạn cụ thể.

Giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu vào mới chỉ là đáp ứng yêu cầu của tái sản xuất giản đơn. Trong khi đó mục đích chính của cơ chế thị trường là tái sản xuất mở rộng tức là giá tiêu thụ hàng hóa sau khi bù đắp chi phí đầu vào vẫn phải bảo đảm có lãi. Do đó, việc quản lý, hạch toán công tác giá thành sao cho vừa hợp lý, chính xác vừa bảo đảm vạch ra phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm có vai trò vô cùng quan trọng.

Phân loại giá thành sản xuất sản phẩm

Có rất nhiều cách phân loại giá thành sản phẩm. Tùy theo tiêu chí lựa chọn mà giá thành sản phẩm có thể được phân loại thành các trường hợp sau:

* Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành

Theo cách phân loại này thì chi phí được chia thành giá thành dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.

* Giá thành dự toán: là chỉ tiêu giá thành được xây dựng trên cơ sở thiết kế kỹ thuật đã được duyệt, các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước quy định, tính theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực thi công và phân tích định mức.

Căn cứ vào giá trị dự toán, ta có thể xác định được giá thành của sản phẩm xây lắp theo công thức:
Giá thành dự toán sản phẩm xây lắp = Giá trị dự toán sản phẩm xây lắp - Lãi định mức

Trong đó

* Lãi định mức trong XDCB được Nhà nước quy định trong từng thời kỳ
* Giá trị dự toán xây lắp được xây lắp được xác định dựa vào đinh mức đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền và dựa trên mặt bằng giá cả của thị trường, do đó giá trị dự toán chính
* Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu này được xác lập trên cơ sở giá thành dự toán gắn liền với điều kiện cụ thể, năng lực thực tế của từng doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.

Giá thành kế hoạch sản phẩm xây lắp = Giá thành dự toán sản phẩm xây lắp - Mức hạ giá thành dự toán +-Chênh lệch định mức

Giá thành kế hoạch là căn cứ để so sánh, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, là mục tiêu phấn đấu hạ giá thành của doanh nghiệp.

* Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
* Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.

Các phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.

* Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí

Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.

* Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Đối với các đơn vị xây lắp giá thành sản xuất gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung.
* Giá thành tiêu thụ: (hay còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức

Giá thành toàn bộ của sản phẩm = Giá thành SX của sản phẩm + CP QLDN + CP bán hàng

Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kế quả kinh doanh của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.

Bùi Hoàng Anh (tapchiketoan.info)
 
Chi phí sản xuất trong ngành kinh doanh xây lắp

Chi phí sản xuất trong ngành kinh doanh xây lắp

Nguồn : Tạp chí kế toán

Khái niệm

Sản xuất gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của loài người. Quá trình sản xuất là sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản: đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động sống. Lao động là hoạt động một cách có ý thức của người lao động tác động một cách có mục đích lên đối tượng lao động và tư liệu lao động, qua quá trình biến đổi sẽ tạo ra sản phẩm, lao vụ. Đó chính là sự tiêu hao ba yếu tố trên. Trong xã hội tồn tại quan hệ hàng hóa - tiền tệ, hao phí yếu tố nguồn lực cho sản xuất, kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức giá trị, gọi là chi phí sản xuất, kinh doanh.

Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định. Chi phí về lao động sống là những chi phí về tiền lương, thưởng, phụ cấp và các khoản trích theo lương của người lao động. Chi phí lao động vật hóa là những chi phí về sử dụng các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao động dưới các hình thái vật chất, phi vật chất, tài chính và phi tài chính.

Phân loại chi phí sản xuất

Việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ đơn thuần là quản lý số liệu phản ánh tổng hợp chi phí mà phải dựa trên cả các yếu tố chi phí riêng biệt để phân tích toàn bộ chi phí sản xuất của từng công trình, hạng mục công trình hay theo nơi phát sinh chi phí. Dưới các góc độ xem xét khác nhau, theo những tiêu chí khác nhau thì chi phí sản xuất cũng được phân loại theo các cách khác nhau để đáp ứng yêu cầu thực tế của quản lý và hạch toán.

Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm

Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng chung của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm bao gồm các khoản mục chi phí sau :

o Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị thực tế của nguyên liệu, vật liệu chính, phụ hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp và giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp ( không kể vật liệu cho máy móc thi công và hoạt động sản xuất chung.
o Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho công nhân trực tiếp xây lắp
o Chi phí sử dụng máy thi công: bao gồm chi phí cho các máy thi công nhằm thực hiện khối lượng xây lắp bằng máy. Máy móc thi công là loại máy trực tiếp phục vụ xây lắp công trình. Đó là những máy móc chuyển động bằng động cơ hơi nước, diezen, xăng, điện,...​

Chi phí sử dụng máy thi công gồm chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.

* Chi phí thường xuyên cho hoạt động của máy thi công gồm: lương chính, phụ của công nhân điều khiển, phục vụ máy thi công. Chi phí nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài (sửa chữa nhỏ, điện, nước, bảo hiểm xe, máy ) và các chi phí khác bằng tiền.
* Chi phí tạm thời: chi phí sửa chữa lớn máy thi công (đại tu, trung tu...), chi phí công trình tạm thời cho máy thi công (lều, lán, bệ, đường ray chạy máy....). Chi phí tạm thời của máy có thể phát sinh trước (hạch toán trên TK 142, 242) sau đó phân bổ dần vào TK 623. Hoặc phát sinh sau nhưng phải tính trước vào chi phí sử dụng máy thi công trong kỳ (do liên quan đến việc sử dụng thực tế máy móc thi công trong kỳ). Trường hợp này phải tiến hành trích trước chi phí (hạch toán trên TK 335)​
o Chi phí sản xuất chung: phản ánh chi phí sản xuất của đội, công trường xây dựng bao gồm: lương nhân viên quản lý đội, công trường, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (19 %) trên tiền lương của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều khiển xe, máy thi công và nhân viên quản lý đội, khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội
o Chi phí bán hàng: gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa dịch vụ trong kỳ
o Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản trị hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất cứ hoạt động hay phân xưởng, công trường nào.​

Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí

Để phục vụ cho việc tập hợp và quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia thành các yếu tố:

o Chi phí nguyên liệu, vật liệu : gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu, phục tùng thay thế, công cụ dụng cụ ...sử dụng trong sản xuất kinh doanh
o Chí phí nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất
o Chi phí nhân công: tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương phải trả cho công nhân viên chức
o Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho cán bộ công nhân viên
o Chi phí khấu hao TSCĐ: tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
o Chi phí dịch vụ mua ngoài: toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản xuất kinh doanh
o Chi phí bằng tiền khác: toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.​

Theo cách này, doanh nghiệp xác định được kết cấu tỷ trọng của từng loại chi phí trong tổng chi phí sản xuất để lập thuyết minh báo cáo tài chính đồng thời phục vụ cho nhu cầu của công tác quản trị trong doanh nghiệp, làm cơ sở để lập mức dự toán cho kỳ sau.

Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm lao vụ hoàn thành

Theo cách này chi phí được phân loại theo cách ứng xử của chi phí hay là xem xét sự biến động của chi phí khi mức độ hoạt động thay đổi. Chi phí được phân thành 3 loại

o Biến phí: là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với khối lượng công việc hoàn thành, thường bao gồm: chí phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí bao bì, ….Biến phí trên một đơn vị sản phẩm luôn là một mức ổn định
o Định phí: là những khoản chi phí cố định khi khối lượng công việc hoàn thành thay đổi. Tuy nhiên, nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì định phí lại biến đổi. Định phí thường bao gồm: chí phí khấu hao TSCĐ sử dụng chung, tiền lương nhân viên, cán bộ quản lý, ….
o Hỗn hợp phí: là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố biến phí và định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Hỗn hợp phí thường gồm: chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp...​

Cách phân loại trên giúp doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch, kiểm tra chi phí, xác định điểm hòa vốn, phân tích tình hình tiết kiệm chi phí, tìm ra phương hướng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.

Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí

Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.

* Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua
* Chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ loại nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.

Bùi Hoàng Anh (www.tapchiketoan.info)
 
Em cám ơn.
Nhưng cho Em hỏi chút chút nữa.
VD : Hóa đơn vô : sắt 10 tr , xi mang 10 tr , cát 10 tr.... ( giả xử có 3 cái )
Hóa đơn ra : công trình A : 40 tr ( đã dùng hết các thứ đã mua và trả lương 10 tr )
Trong báo cáo tháng :
Bên mua thì em khai cả 3 HĐ đầu vô .
Bên bán thì em khai 1 cái xuất ra .
Bên Xuất Nhập Tồn thì em khai vô bao nhiêu ,ra bấy nhiêu Hả Các Bác .
Kẹt cái làm sao cho hiểu được là Sắt , xi măng ,cát .... đã xuất hết trong tờ Hoa Đơn xuất ra.
Chân thành cám ơn.
 
Chào mọi người, mình có vấn đề muốn xin lời khuyên của các bạn về vấn đề hợp đồng giao khoán và chi phí hợp lý khi tính thuế TNDN.
Mình xin đưa ra tình huống cụ thể mình đang làm.
- Cty mình ký hợp đồng tư vấn lập dự án đầu tư với chủ đầu tư (CĐT) với giá trị là 300tr đồng.
- Bên mình sẽ giao khoán lại toàn bộ nội dung trên cho 1 cá nhân đại diện (là Chủ nhiệm DA) để họ tổ chức nhân lực thực hiện các công việc này bằng 1 HĐ giao khoán trị giá tầm 100tr.
- Mình có 1 vài điều muốn hỏi, cụ thể:
1. Chi phí 100tr này mình có thể đưa vào chi phí hợp lý của Cty để sau này trừ vào thuế TNDN phải đóng ko?
2. Nếu được thì cần bổ sung hoặc yêu cầu cá nhân đó xuất chứng từ gì (hóa đơn, bảng kê..) để bên mình có thể giải trình với cơ quan thuế thế nào?
Mình cũng đã tìm hiểu trên các diễn đàn nhưng vẫn muốn xin ý kiến hướng dẫn của mọi người.
Rất mong mọi người giúp đỡ vì mình vốn ko phải là dân kế toán.
Cám ơn rất nhiều.
 
Các bác ơi, Công ty E đang làm 1 cái nhà khung thép.Làm 2 hợp đồng:1HĐ thuê nhân công,1HĐ mua vật liệu.Các bác h­ướng dẫn E cách hạch toán với.
 
Bạn nói chung chung như thế, em cũng chịu chết.
+ Hợp đồng thuê nhân công : Nội dung hợp đồng làm cái gì - Ký với 1 đối tác hay sao ? Họ có xuất hóa đơn hay không ?
+ Hợp đồng mua nguyên vật liệu : Hạch toán mua hàng bình thường
 
ch­ung tu hop lý co may thi cong
 
Chào các anh chị trong diễn đàn!
Em là kế toán mới ra trường, đi làm được 2 tháng nay thôi.Mong nhận đươc sự giúp đỡ của mấy anh chị.
Em đang chuẩn bị phải khai báo thuế tháng, mà theo đúng thì chỉ khai những chi phí có Hóa Đơn thôi, đúng không mấy anh chị?Vậy mà Sếp em lại đưa cho em mấy tờ phiếu thu về chi phí quảng cáo, chi phí thành lập Cty (vì cty em mới thành lập)........hoặc những loại chi phí đại loại như vậy, Sếp bảo là có thể xem là chi phí hợp lý và bảo em khai báo, nhưng em lại nghĩ, chi phí mà ko có hóa đơn thì Chi cục thuế sẽ không chấp nhận, không biết em nghĩ vậy có đúng không?Mong mấy anh chị giúp em với.Em cảm ơn nhiều!
 
Lần chỉnh sửa cuối:
Web KT
Back
Top Bottom